Wednesday, May 28, 2008

# Hùm Miêu Đùa Chữ

“Hùm Miêu Đùa Chữ” là tiểu phẩm cười, vui đùa, giỡn chữ giữa Thày (Hùm) và trò (Minh Mẫn – Miêu), đôi khi giữa mẹ (Minh Mẫn) và con trai (Dễ). Qua trò chơi, Minh Mẫn được cười đùa dzui dzẻ, ôn lại ngôn ngữ, rèn luyện trí thông minh, khả năng phản xạ nhanh nhạy, thư giãn. Nhưng điều quan trọng nhất đối với mẹ con Minh Mẫn là sau “cuộc chơi” ai cũng gặt hái được nhiều ý nghĩa sâu xa, cao đẹp về tâm linh, hướng tâm hồn về “ĐIỂM MƠ” nhiều hơn. Hậu “Hùm Miêu đùa chữ” đầy hứng thú chắc chắn sẽ làm cho người chơi luôn phải đào sâu suy nghĩ để hiểu thêm được vị ngọt hay đắng mà màn kịch để lại.


1. Tiểu phẩm thứ nhất:


Du màno. Trả lời nhanh.
Im lặng.
Miêu Hổ cù mùng.
Im lặng.
Dừng mõ.
Tiếp chiêng.
Tiếp thanh la hay hơn.
Là... là giũ mùng ra Thày, trò thọc lét đùa giỡn.
Là nô đùa trong màn rồi đi ngủ, ngưng “mõ”.
Là ngưng cười đùa đi ngủ, “mõ” nhiều Thày rát tai.
Là vào mùng rồi thì ngưng “mõ”.
Là bỏ màn đi ngủ tiếp thanh điển.
Là bỏ màn vô minh đón tiếp Thánh hiền.
Là Vía du lên nô đùa với Thày Mẹ.
Là Vía đi mừng Thày Mẹ.
Là… là: Ôi tục tĩu, xấu lắm, thiếu văn hóa lắm, con không dám nói…
Ý thày là giũ mà nô.
À con hiểu rồi: Giũ (rũ, bung, bỏ, giở) chữ ra mà nô đùa, Hay quá! Giở chữ ra mà chơi trò Hùm Miêu đùa chữ, Mèo vờn Chuột, màn đùa màn dùng mùng cuả Thày. Thật là tuyệt…Cú Mèo, màn kịch đùa chữ thế mà con chẳng nghĩ ra. Bây giờ con mới hiểu: Lúc nãy Thày nói “dừng mõ” là ý Thày hỏi tại sao con vẫn làm thinh, màn này con rút kinh nghiệm, sẽ “hoạt phẩm” nhanh như 113 để lần sau không bị Thày “mưa màn,” “trùm mền” nữa. Con hứa màn “Hùm Miêu đùa chữ” lần sau muôn (nhiều) “mơ cùng màn” với Thày, giũ màn đen để “nô” mà được thêm “Minh Mẫn,” dùng “mùng” (ngày Vía của Thày mùng 9, 19, 20 âm lịch hàng tháng… ngày nào cũng là mùng cuả Thày, chớ vội buông mùng mền đi ngủ sớm mà hãy tập “mơ”) của Thày để “MƠ” “MỞ” (bỏ) “màn,” để màng “minh mẫn” mau mở, Thày có OK không?
Đúng mẫu!



2. Tiểu phẩm thứ hai:


DỄMá ơi, để con lên mạng Google tìm cho má một bức ảnh tượng Phật đẹp thay cho bức ảnh Phật má để trên đầu bài “hướng dẫn sử dụng bài thuốc” trang “chăm sóc sức khỏe và trị bệnh” này nhé.
MẪUỦa?
DỄCon thường thấy ảnh Đức Phật ngồi trên tòa sen, Ông Phật này của má ngồi trên tòa gạch, dưới chân lại còn sỏi đá nữa chứ.
MẪUTiền nào của nấy đó con.
DỄA, con hiểu rồi, Ông Phật “tọa” tòa gạch của má là… con người ta, là Người biết “đói ăn rau, đau uống thuốc” – biết “chăm sóc sức khỏe” của mình và lúc đau bệnh biết tìm “bài thuốc trị bệnh,” luôn phải “lăn lóc” với sỏi đá tu tập để tiến bộ.
MẪUThế con có hiểu gạch là gì không?
DỄGạch làm từ đất nung. Đất theo Kinh Dịch tượng trưng cho Mẹ - là Đất Mẹ. Đất nung có nghiã là đất đã được Mẹ tôi luyện. Vậy thì “tòa” gạch đã được Mẹ tôi luyện là tòa sen rồi. Người ngồi trên đó đích thực là một Vị Phật, “xanh vỏ, đỏ lòng mà”!
MẪUChơi tiếp trò đùa chữ đi?
DỄNgâm nghêu ngao:
“Bàn tay ta làm nên tất cả,
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.”
Những viên sỏi đá nằm dưới tòa gạch đó là con người chúng ta, là vạn vật muôn loài cần được bỏ vào lò Bát Quái của Thái Thượng Lão Quân nung để trở thành Phật, thành tòa sen có đúng không má?
MẪUGừng già càng cay.

Saturday, May 24, 2008

# Chiếc Máy Niệm Phật và Giấc Ngủ


Người trình bày: Thái Minh Mẫn


Bác Hồ kính yêu của dân tộc Việt Nam không còn nữa nhưng hôm nay cả nước vui mừng làm lễ kỷ niệm 118 năm ngày sinh của Bác. Từ nhiều tuần nay hàng triệu Phật tử trên thế giới cũng như trong nước nô nức chuẩn bị cho ngày Đại Lễ Phật Đản, và hôm nay chào đón sự kiện Thái Tử Tất Đạt Đa giáng sinh trên đất nước Sakya cách đây hơn 2500 năm. Ánh sáng của sự Giác ngộ vẫn luôn xuyên suốt qua nhiều thế kỷ soi rọi lý tưởng, triết lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni về tình yêu thương, sự sáng suốt của trí huệ, lòng dũng cảm của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng đã thấu hiểu và dìu dắt con cháu bước theo con đường cao đẹp mà Đức Phật đã chỉ ra cho loài người hầu mong thành tựu hạnh phúc ấm no, công bằng bác ái cho dân tộc Việt Nam.

Nhân dịp ngày Lễ trọng đại vừa đậm đà bản sắc tôn giáo hiền hòa, vừa mang ý nghĩa chính trị lớn lao, xin Cha cho phép con quán tưởng ước muốn “tỉnh thức” trong giấc ngủ, mơ đạt tới hình ảnh cao quí, sự giác ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni như đóa hoa thơm ngát để dâng kính lên Người nhân ngày lễ Phật Đản năm nay.

Hàng ngày mỗi khi thức dậy bởi tiếng gà gáy hay tiếng ồn của xe cộ, tâm ta bắt đầu loạn động bởi ngoại cảnh. Đó cũng là lúc bạn nhận biết ít nhiều về những trạng thái tình cảm của mình như được, mất, khen, chê, vui, buồn, vinh, nhục (triết lý của đạo Phật gọi là thất tình, lục dục) bắt đầu “khảo đảo” ta. Một câu hỏi được đặt ra, trạng thái của tâm ta diễn ra như thế nào trong khi ta ngủ? Liệu con người ta có thể tu tập để “tỉnh thức” trong khi ngủ hay không? Giá mà ta có thể đặt chiếc máy quay camera (máy quay phim) trong đầu để ghi lại hết các hình ảnh, âm thanh trong bộ não ta khi ta đang “chìm trong giấc mộng vàng”!

Cầm trong tay một chiếc máy niệm Phật (niệm Lục Tự Di Đà), “mơ” lời Thày nói hôm nào: “Cha cho con chiếc máy niệm Phật này (chả là có lần tôi đi đến một thiền đường ở quận 2, một chị bạn trong lần đầu gặp mặt đã tặng cho tôi), buổi tối khi đi ngủ con bật máy lên. Tiếng niệm Phật phát ra trong máy sẽ giúp con minh mẫn, tiến bộ hơn.” – lúc đó tôi chưa thật hiểu Cha muốn chỉ dạy gì cho tôi. Nhưng sáng sớm nay, bản nhạc “Lục Tự Đại Minh Thần Chú” (OM MANI PADME HUM) phát ra từ chiếc radio cassette bên trong một quầy sách đã làm tôi thực sự xúc động.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng suy nghĩ, hành động người mẹ mang thai có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thai nhi và sự hình thành nhân cách của con trẻ sau này. Chính vì thế các bà mẹ thường sinh hoạt, ăn uống điều độ hơn, tâm tính hiền dịu hơn vì họ nghĩ tới đức con đang trong bụng mình. Nhiều người mẹ còn cho con nghe nhạc để “ru” thai mau lớn. Đứa con trong bụng mẹ đang “ngủ” nhưng nó vẫn đang tiến hóa theo định luật bất biến của Vũ Trụ.

Minh Mẫn chợt nghĩ ra rằng con người trong khi ngủ, giống như bào thai, vẫn có thể tu tập và hoàn thiện nhân cách của mình, vì lúc đó chúng ta không khác chúng (ngoại trừ việc bào thai bị “giam” trong tử cung của người mẹ).

Khoa học đã nghiên cứu về giấc ngủ và đi đến kết luận rằng giấc ngủ của người khỏe mạnh bình thường được chia ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ khi nằm xuống cho đến hai giờ sáng là giấc ngủ nông. Giai đoạn thứ hai là từ sau hai giờ sáng cho đến năm giờ sáng là giấc ngủ sâu. Cơ thể vẫn phải làm việc trong giấc ngủ nông để thực hiện việc trao đổi chất, phục hồi sức khỏe và sinh lực sau một ngày làm việc mệt mỏi, nhưng cường độ giảm nhiều so với ban ngày. Ở giai đoạn ngủ sâu, các bộ phận trong cơ thể thực hiện sự trao đổi chất với công suất tối thiểu. Nếu thức giấc, người bạn đời bên cạnh bạn chỉ có thể nghe tiếng “thình thịch” chầm chậm của trái tim, hơi thở nhẹ nhàng, sâu lắng của bạn mà thôi. Giấc ngủ không phải là sự “chết” giả.

Cơ thể con người bao gồm hàng tỷ các tế bào được sắp đặt và vận hành theo một trật tự nhất định. Những “chúng sinh” (các tế bào vi sinh vật) trong con người vẫn rất cần một “môi trường trong sạch” để sống, tu tập cũng giống như tôi hay bạn muốn được hít thở thanh điển. Chúng (các vi sinh vật, các thần dân, những đứa con của Hoàng Hậu Maya) là tôi (Hoàng Hậu Maya - mẹ của Thái Tử Tất Đạt Đa) và tôi là chúng, nhưng chúng cũng là chúng, mà tôi là tôi. Nếu tôi không biết tỉnh thức trong giấc ngủ thì tôi vẫn “mê” như chúng: tôi mê ngủ, mê trần, si mê; còn chúng, những tế bào vi sinh vật “mê thức,” sống trong “đau khổ” vì là “thần dân” của một “nữ hoàng” thiếu sáng suốt. Nói một cách khác, tâm tôi vẫn bị loạn động, khảo đảo bởi chúng sinh mê muội trong tôi. Những vi sinh vật kém tiến hóa hơn tôi và tôi - người đang trên con đường tìm chân lý cần được “gieo chủng tử Bồ Đề” và “đánh thức” trong khi ngủ bằng những “Âm Ba Đại Ngã” của Cha, cho “ăn’ Pháp vị để mau giác ngộ (tỉnh thức) trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật Gotama.

Giữ chánh niệm liên tục không những trong lúc tỉnh mà còn ngay trong khi ngủ sẽ giúp Tiểu vũ trụ (là Ta, là linh hồn của Bản Thể ta, là Hoàng Hậu Maya và cũng chính là Thái Tử Tất Đạt Đa) với vô sô chúng sanh trong tôi (Ta) tiến bộ, đạt tới Giác ngộ. Một biện pháp hữu hiệu tác động vào sự trì trệ, sức ỳ của chúng sinh - những “thái tử tất đạt đa” (các tế bào vi sinh vật), còn ham mê hưởng “vinh hoa phú quí” và cả tôi – Thái Tử Tất Đạt Đa (một Động Vật Cao Cấp), vào sự si mê của “chúng sinh” – “Con Người” – “đất nước Sakya”, giúp cho chủng tử Bồ Đề của chúng sinh trong tôi được nảy mầm, cho tâm tôi đơm hoa kết trái ngọt là được nghe “Âm Ba của Đại Ngã” trong giấc ngủ hay các âm thanh kỳ diệu như âm thanh niệm Phật, niệm Thần Chú.

Giữ chánh niệm liên tục trong lúc ngủ sẽ làm cho tâm thức vốn dĩ trong sáng, thanh tịnh của bạn không bị các lớp trược khí (là những tế bào vi sinh vật, là Ngũ Ma (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức), là những Lục Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý), là những Lục Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp), cái “tôi” mà bấy lâu nay bạn vẫn tưởng nhầm là “mình,” là “ta”) bủa vây tứ phía.

Nhân đây xin nói thêm về Thần Chú. Qua bài học Thày cho Minh Mẫn biết được: Chú là những tập hợp của các âm thanh, là một loại năng lượng ở tần số cao, thanh, nhẹ trong Vũ trụ, người bình thường không thể hiểu, hoặc hiểu hết được ý nghĩa của nó (dù là nghĩa đen), nhưng công năng của nó thì ngoài sức tưởng tượng của con người, do một Đấng hay một người nào đó nghĩ ra. Có rất nhiều loại Chú: Thiện Chú (Thần Chú, Mật Chú) và Tà Chú. Thiên Chú của Cha - Đấng Tối Thượng là “Âm Ba Đại Ngã” mà người bình thường có thể nghe và cảm nhận được, ví dụ như “OM,” “UM.” Thần Chú nguyên thủy của Phật thường hướng thiện cho chúng ta dưới dạng Phạn ngữ Hậu Thiên (sau này người ta có thể phiên dịch ra Hoa ngữ) như trong các bài Kinh thường gặp có thể kể ra một vài loại như: Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi, Chú Chuẩn Đề, Lục Tự Thần Chú, Lục Tự Đại Minh Thần Chú v.v..Mật Chú thường được truyền khẩu không phổ biến rộng rãi. Ví dụ, những Mật Chú do sư phụ bí truyền cho các Lạt Ma Tây Tạng có công năng làm cho họ (người niệm Chú) có năng lực vượt qua khó khăn thử thách để đeo đuổi mục đích giải thoát luân hồi sinh tử của mình và từ đó tiến bộ nhanh hơn. Tà chú của các thầy Phù Thủy dùng vào mục đích bất lương, ví dụ để “yểm” (ếm) hình nhân thế mạng v.v...

Thiện Chú của Trời Phật tác động tích cực vào mặt đời sống cũng như tâm linh của người niệm (khi ta đã thuộc lòng câu chú do đó có thể niệm thầm trong tâm, niệm lâm lâm, hoặc niệm to thành tiếng), hoặc đọc (khi ta chưa thuộc chú). Thiên Chú, Thần Chú, dẫn dắt người tụng niệm Chú hướng Thượng, tiến tới đạt Giác ngộ. Người ta có thể “đoán mò” qua trí phàm được ý nghĩa tốt đẹp chủ yếu của một số loại Thiện Chú qua nội dung hoặc tựa. Ví dụ, âm “OM” của Cha: bằng thuật lái chữ ta được những chữ có ý nghĩa lớn lao về mặt tâm linh như chữ “om” (ngâm hay giam giữ ai, cái gì đó trong cái gì đó phải chăng là không không? Có mà không, không mà có?) “mơ,” “mở,” “mờ,” (liên hệ đến tập hợp mờ trong toán học, phần mờ (vô hình) chưa nhìn thấy được trong Vũ trụ bằng mắt thường). Âm “O” cho ta liên tưởng đến “Vô Cực,” đến “Thái Cực” từ chữ “tối om,” (Thái Cực trong Kinh Dịch có biểu tượng hình tròn nửa tối, nửa sáng), con số không 0 (không gian vô hạn bao quanh ta), vô cùng, vô tận khi hai con số không (0) đứng cạnh nhau (trong toán học ký hiệu là ∞), điểm “mở” trong không gian bốn chiều và đa chiều. Âm “M” cho ta liên tưởng đến điểm “mở,” chữ “Munô,” “Mum,” “Amunô” có nghĩa là Cha, Mẫu Mẹ, Mẫu Con trong Trung Thiên Phạn ngữ… (Bạn đọc có thể dùng trò chơi đố chữ bằng cách thêm hay bớt một hay nhiều chữ cái vào các Âm “OM,” “UM” để suy ra cho mình rất nhiều ý nghĩa cao đẹp trong những âm Thiên Chú đó); hoặc như “Chú Đại Bi” – lòng yêu thương vô bờ bởi hai từ Đại Bi v.v...

Từ những lý do trên đây cho thấy trong khi ngủ nếu bản thể ta và các chúng sinh trong ta được các dòng năng lượng không thể nghĩ bàn về công năng nói trên tác động vào tâm thức, được não bộ ghi lại thì bạn thử nghĩ xem điều gì sẻ xảy ra? Minh Mẫn cho rằng âm thanh diệu kỳ, dòng năng lượng thanh nhẹ, luồng hào quang chói lọi đó là tiếng “gõ cửa” đánh thức tâm ta vào thời khắc giao thoa giữa giấc ngủ nông và sâu, như những tia chớp giữa đêm giông “thức giấc” kẻ “ngủ mê” trong trong đêm dài tăm tối.

Thày chỉ dạy thêm: niệm hay đọc Thiện Chú nào cũng tốt, niệm càng nhiều càng tốt, điều quan trọng là khi niệm ta cần chú tâm, nhất nhất đến mức không còn phân biệt đâu là Chú, đâu là người niệm Chú nữa thì mới chứng quả “A nậu đa la Tam Miệu Tam Bồ Đề” như Đức Phật đã chỉ dạy trong “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.”

Bình thường khi tỉnh dậy người ta không thể nhớ gì về giấc ngủ tối qua, nhưng cũng có những người nhớ lại được một số hình ảnh, lời nói trong giấc mơ, cá biệt có người còn nhớ được “như in” giấc mơ đêm qua của mình. Người không nhớ gì cả có thể giải thích là do họ đã bị “mê” ngủ, ngủ chết mê, chết mệt hay họ ngủ “say” đến nỗi không biết trời trăng là gì cả. Đa số cho rằng giấc mơ chỉ là những kết quả của những hành động, suy nghĩ của những sự việc ban ngày. Sở dĩ có sự khác biệt đó là do “căn cơ” khác nhau của mỗi người.

Xin kể lại cho các bạn nghe về giấc mơ đẹp, ấn tượng mà Minh Mẫn nhớ lại được một đoạn mấy năm trước đây: Hôm đó là đêm ngày hai mươi lăm tháng mười hai âm lịch: Trước mặt Minh Mẫn là một bó hoa sen hồng khoảng mười bông nở có, búp có được bó lại rất gọn “trên nền” một khoảng trống (có thể là sự biểu hiện của sự rỗng lặng?) Minh Mẫn bị “hớp hồn” vào một đóa sen to nhất, nở đẹp nhất, có hình dáng, sắc hồng giống như bông sen bình thường, to (bằng cái tô ăn phở loại lớn), nhưng nhìn vào nó cảm thấy như “hoa biết nói” vì nó không hề giống bất cứ một bông sen nào ở trần gian mà tôi đã thấy vì vẻ đẹp “mê hồn” của nó – sen Tiên. Tôi nhìn quanh và tự hỏi “không biết sen của ai ở đây mà đẹp thế, để tôi hỏi mua cúng Phật?”…

Minh Mẫn được Thày giải thích cho biết : tất cả những sự việc, hành động, suy nghĩ, lời nói (gọi tắt là nhận thức) của ta hàng ngày đều được tâm thức hay còn gọi là a da lại thức của ta ghi lại. Khi ta ngủ, tâm ta vẫn “thức,” giấc mơ ở giai đoạn giấc ngủ nông chẳng qua là những cuốn truyện xảy ra trong tâm thức ta mà ta là tác giả viết về sự việc “có thật” hay “không có thật” trong quá khứ hay tương lai của ta với các nhân vật là các sự kiện và nhận thức “trong ta” làm diễn viên. Nói một cách khác, tâm ta “tự động sản xuất phim giả tưởng” trong giấc ngủ. Tâm “thức” hình thành giấc mơ, mã hóa nó dưới dạng sóng năng lượng. Dòng năng lượng này tác động lên vỏ não, được não bộ bắt tín hiệu và lưu giữ. Cường độ của dòng năng lượng tác động lên vỏ não quyết định đến mức độ giải mã “bức tranh” mà ta đã đã “mướn họa sĩ tâm” vẽ đêm hôm qua khi ngủ. Do đó muốn “mở” bức tranh sinh động kia, bạn phải “nối mạch nhớ giấc mơ” (bắt tâm thức “làm việc trong tỉnh thức”) thông qua việc thường xuyên ôn lại những ý nghĩ, việc làm của mình trước và sau khi ngủ dậy. Đó cũng là một trong các phương pháp rèn luyện trí nhớ, chống lão hóa của con người.

Có khi nào ban đêm đang ngủ bạn giật mình ngồi bật dậy, mồ hôi toát ra đầm đìa, tim đập thịch thịch vì thấy ác mộng với những con thú dữ, hoặc những người có hình thú quái dị đuổi bắt đòi ăn thịt hoặc giết chết bạn? Chắc hẳn lúc đó bạn chưa thể hiểu cặn kẽ lý do như khi đọc bài viết này. Bạn có đồng ý với Minh Mẫn rằng những suy nghĩ, hành động hướng Thượng cao đẹp của bạn sẽ luôn mang đến cho bạn giấc ngủ êm ái với những giấc mơ đẹp, hiền hòa không?

Thày chỉ dạy cho Minh Mẫn biết khi ngủ thể Vía của con người bắt đầu hoạt động. Thể vía có ngay khi bào thai được hình thành, chỉ sau khi đứa bé chào đời linh hồn của nó mới “hội nhập” vào thể xác để tạo thành một con người hoàn chỉnh. “Căn nhà” của Vía là ở luân xa 3 hay còn gọi là mệnh môn. Khi ta ngủ sâu là lúc Vía tách khỏi thể xác và bắt đầu cuộc hành trình để học hỏi của nó. Vía (được nối liền với thể xác bằng một sợi dây khí màu bạc) “xuất hành” khi ta chìm trong giấc ngủ sâu và trở lại căn nhà của mình khi vầng dương hé lộ.

Vậy Vía đi đâu, làm gì tôi hơi tò mò và thắc mắc? Thày nhắc tôi nhớ lại câu dân gian:

“Mùng năm, mười tám, hai ba
Là ngày Vía Mẹ, Vía Cha đi mừng.”


Và muốn chỉnh lại là:

“Mùng năm, mười tám, hai ba
Là ngày Vía phải đi mừng Mẹ, Cha .”


đồng thời giải thích thêm: thể Vía chỉ có thể tách khỏi thể xác đi lên cao “mừng Cha, Mẹ” của nó vào ba ngày mùng năm, mười tám, hai mươi ba âm lịch hàng tháng thôi, những ngày còn lại trong tháng “nó” không thể “tự ý”. Nó (Vía) đi đâu, làm gì và học được bài học gì - MƠ gì, Cha Mẹ sẽ mừng vui như thế nào khi gặp “nó” chỉ chính bạn mới có thể chứng minh lời chỉ dạy của Thày và trả lời chính xác được sau khi đã chiêm nghiệm nó.

Thày còn chỉ dạy thêm rằng thực hành pháp luân thường chuyển, thiền định đều đặn, hợp lý, đúng phương pháp sẽ giúp cho thể Vía “đi, về” ung dung tự tại (tức là được giải thoát, được tự do). Vía “lên thăm Cha, Mẹ” đều đặn mỗi buổi đêm là một bước tiến bộ của người tu tập thiền định.

Cuộc đời ngắn ngủi (dài nhất là một trăm năm có lẻ) của con người ở Trần thế chưa phải là tất cả. Cha đã chỉ dạy trong cuốn “Thượng Đế giảng chân lý” rằng các Tiểu hồn xuống đây không phải để mê Trần mà để học hỏi, tiến hóa cùng cơ tiến hóa của Vũ Trụ. Con người vẫn phải học tập, tu sửa, kinh nghiệm những khổ đau, mất mát để rồi học được bài học yêu thương, từ bi hỷ xả, tiến hóa để trở về với Cội Nguồn. Thế nên Minh Mẫn nghĩ rằng người thông minh, tinh tấn là người phải không ngừng học hỏi để tỉnh thức trong lúc tỉnh và “tỉnh” cả trong “mơ.”

Buổi tối sau khi công phu và thực tập thiền định, tôi được Thày hướng dẫn trước khi đi ngủ nên tắm lại hoặc lau mình cho sạch sẽ, cầu nguyện được học đạo và nhớ lại được những điều đã được học trong giấc ngủ, khi lên giường trước khi ngủ kiểm điểm lại theo thứ tự thời gian tất cả những sự việc, lời nói, hành động của mình trong ngày (có sám hối những lỗi lầm mình gây ra), nằm ngửa trong tư thế ngay ngắn, gối đầu cao, hai tay để trên ngực (lòng bàn tay trái mở, các ngón tay khép sát để lên ngực, tay phải bắt ấn Quan Âm úp lên tay trái), niệm Thần Chú “Om Mani Padme Hum” liên tục cho đến khi ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy, dò lại bài học tâm linh tối qua, kế đó ráng nhớ lại mình có mơ, mơ gì trong đêm qua hay không trước khi cầu nguyện và thực tập thiền định sáng sớm.

Sau này một phần do bận bịu, tôi đã sao lãng không thực hiện đầy đủ những điều Thày chỉ dạy nói trên, thêm vào đó khi nhận được “của quí Thày cho” - chiếc máy niệm Phật, tôi đã đem tặng lại cho mẹ tôi với ước muốn mẹ sẽ dễ ngủ, hết bệnh, được thanh thản, đầu óc minh mẫn, nên theo đó những giấc mơ mà tôi nhớ lại được từ từ thưa đi. Cho đến hôm nay khi nghe được bản nhạc niệm Lục Tự Đại Minh Chú, nhìn thấy những chiếc đĩa CD với bản niệm Phật, niệm Thần Chú…trong hiệu sách tôi mới hiểu ra bài học: Thày đã ban cho tôi “một chiếc máy quay phim (máy quay camera) làm “công tắc” để “nối mạch” tu tập, một báu vật mà tôi gìn giữ một cách lơ là bấy lâu nay. Đã đến lúc tôi phải chùi sạch bụi, tra dầu mỡ và đưa nó vào sử dụng.

Cha ơi! Cảm ơn Cha, con đã hiểu bài học Cha cho con về chiếc máy niệm Phật và xin hứa với Cha sẽ thực hiện đúng những điều Cha đã chỉ dạy cho con. Chắc Cha muốn con viết lại kinh nghiệm này để bạn đọc cùng tham khảo và thay Cha gửi tặng đến họ những “chiếc máy niệm Phật”* với hy vọng những âm thanh của Chân Thiện Mỹ sẽ giúp họ có một giấc ngủ minh mẫn với những giấc “ MƠ” đẹp và gặt hái được nhiều tiến bộ trong tu tập của mình. Cha có vui mừng không Cha???

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 19 tháng 5 năm 2008
(Tức rằm tháng tư năm Mậu Tý)



*“Chiếc máy niệm Phật” xin gửi đến bạn đọc những âm thanh kỳ diệu sau đây:

*CD 1: Niệm Lục Độ Mẫu TARA (Mẫu Tara: Mẹ Quan Âm theo quan niệm của người Tây Tạng) Phạn ngữ ( tức là niệm Nam Mô A Di Đà Phật theo Việt ngữ hoặc Amitaba theo Phạn ngữ).
*CD 2: Chú Đại Bi Hoa ngữ.
*CD 3: Phạn ngữ Lục Tự Đai Minh Chú: Om Mani Padme Hum (đọc là Om Ma Ni Pê Mê Hum, âm Việt ngữ được đọc là Án Ma Ni Bát Di Hồng).
*CD 4: 1. Đại Bi Chú, 2. Dược Sư Tâm Chú, 3. Dược Sư Chú – Hoa ngữ.
*CD 5: Phạn ngữ Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú: 1. Chuẩn Đề Thần Chú. 2. Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát. 3. Duyên độ Phụ Mẫu Chú. 4. Đại Bi Chú. 5. Lục Tự Đại Minh Chú.

(Để download từ megaupload, xin click vào link trên, nhập code (số và chữ cái) theo như hiển thị, đợi 45 giây và click vào free download)

Ngoài ra, Cha còn muốn Minh Mẫn ghi chép cẩn thận lại lời các bài Thiện Chú để các bạn chọn cho mình bài Chú mình ưa thích (theo cảm nhận), học thuộc lòng, đưa chúng vào cuộc sống hàng ngày một cách đam mê như món ăn tinh thần tuyệt hảo không thể thiếu được của bạn.

LỜI CÁC BÀI “CHÚ ĐẠI BI” VÀ THẬP CHÚ

CHÚ ĐẠI BI

Nam – mô Đại Bi Hội – Thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại Bi Tâm Đà – Là – Ni.
Nam – mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam – mô a rị da.
Bà lô kiết đế, thước bát ra da.
Bồ đề tát đỏa bà da.
Ma ha ca lô ni ca da.
Án.
Tát bàn ra phạt duệ.
Số đát na đát tỏa.
Nam – mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da.
Bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.
Nam – mô na ra cẩn trì.
Hê rị ma ha bàn đà sa mế.
Tát bà a tha, đậu du bằng.
A thệ dựng.
Tát bà tát đa.
Na ma bà dà.
Ma phạt đạt đậu.
Đát điệt tha.
Án, a bà lô hê.
Lô ca đế.
Ca ra đế.
Di hê rị.
Ma ha bồ đề tát đỏa.
Tát bà tát bà.
Ma ra ma ra.
Ma hê ma hê, rị đà dựng.
Cu lô cu lô, yết mông.
Độ lô độ lô, phạt xà ra đế.
Ma ha phạt xà ra đế.
Đà la đà la.
Địa rị ni.
Thất Phật ra da.
Giá ra giá ra.
Mạ mạ, phạt ma ra.
Mục đế lệ.
Y hê y hê.
Thất na thất na.
A ra sâm, Phật ra xá – lợi.
Phạt sa phạt sâm.
Phật ra xá da.
Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô hê rị

Ta ra ta ra.
Tất rị tất rị.
Tô rô tô rô.
Bồ đề dạ, bồ đà dạ.
Di đế rị dạ.
Na ra cẩn trì.
Địa rị sắc ni na.
Ba dạ ma na.
Ta bà ha.
Tất đà dạ.
Ta bà ha.
Ma ha tất đà dạ.
Ta bà ha.
Tất đà dũ nghệ.
Thất bàn ra dạ.
Ta bà ha.
Na ra cẩn trì.
Ta bà ha.
Ma ra na ra.
Ta bà ha.
Tất ra tăng, a mục khê da.
Ta bà ha.
Ta bà ma ha, a tất đà dạ.
Ta bà ha.
Giả kiết ra, a tất đà dạ.
Ta bà ha.
Ba đà ma, kiết tất đà dạ.
Ta bà ha.
Na ra cẩn trì, bàn đà ra dạ.
Ta bà ha.
Ma bà lợi, thắng kiết ra dạ.
Ta bà ha
Nam – mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.
Nam – mô a rị da.
Bà lô kiết đế.
Thước bàn ra dạ.
Ta bà ha.

Án, tất điện đô.
Mạn đà ra.
Bạt đà dạ.
Ta bà ha. (3 lần).


THẬP CHÚ

1. NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ĐÀ – LÀ – NI

Nam – mô Phật – đà – da.
Nam – mô Pháp – ma – da.
Nam – mô Tăng – già – da.

Nam – mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma – Ha – Tát, cựu Đại Bi tâm giả. Đát điệt tha.
Án, chước kiết ra phạt để chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra thước a ra kiết rị sa, dạ hồng phấn ta ha.
Án, Bát đạp ma chấn đa mạt ni, thước ra hồng.
Án, bát lặc đà, bát đẳng mế hồng.


2. TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

Nẳng mồ tam mãn đa mẫu đà nẩm. A bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Đát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng nhập phạ ra, nhập phạ ra, bác na ma nhập phạ ra, bác na ma nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ma phấn ra, ma phấn ra, phiến để ma thất rị duệ, ta phạ ha.


3. CÔNG ĐỨC BẢO SƠN THẦN CHÚ

Nam – mô Phật – đà – da.
Nam – mô Pháp – ma – da.
Nam – mô Tăng – già – da.

Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.


4. PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ

Khể thủ qui y Tô Tất Đế, đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi.
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề, duy nguyện từ bi thao gia hộ hài nhi… (họ tên)
Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề chi cu nẩm đát điệt tha.
Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề, ta bà ha.


5. THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG ĐÀ– LA– NI

Án, nại mã ha cát ngọa đế. A ha da mát rạp. A cưu dị da nạp, Tô Tất Đế, kiệt pháp nạp tả da tả da, đắc phát, cả đạt da. A ma ra đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp.
Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, mã hắt nại dã, bát rị ngọa rị tá hắt.


6. DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH CHƠN NGÔN

Nam – mô Thích Lưu Ly, bát lặt bà, Nam – mô Bạt Già Phật đế, bệ sát xã, lụ rô. Nam – mô hắt ra xà dã, điệt tha yết đa ra, a da hắt đế, Tam Miệu tam một đà la, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát xã, lụ rô tam một yết đế ta ha.


7. QUÁN ÂM LINH CẢM CHƠN NGÔN

Án, ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đạt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc dị tất tháp cát nạp, bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết, thuyết ra da, ta ha.


8. THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN

Ly bà ly bà đế. Cầu ra cầu ha đế. Đà La Ni đế. Ni Ha ra đế. Tỳ Lê nể đế, Ma Ha dà đế. Chơn Lăng càng đế, ta bà ha.


9. VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ

Nam – mô A Di Đà bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa địa dạ tha. A ra dị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tì ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.


10. THIỆN NỮ THIÊN CHÚ

Nam – mô Phật – đà.
Nam – mô Pháp – mạ.
Nam – mô Tăng – già.

Nam – mô Thất Lị. Ma ha để tỷ ra, đát nể dã tha. Ba Lỵ phú lầu na. Giá rị, Tam Mạn Đà. Đặt Xá ni. Ma Ha Tỳ ca ra dà đế. Tam Mạn đà. Tỳ Ni Dà đế. Ma Ha ca rị dã. Ba Để Ba da. Na để Tát Rị Phật Lặc tha, Tam Mạn đà. Tu bát lê đế, phú lệ na. A rị da. Đạt ma đế. Ma ha tỳ cổ tất đế. Ma Ha Di Lặc đế. Lâu Phã tăng kỳ đế, hê đế tỷ. Tăng kỳ hê đế, tam mạn đà. A tha a nậu, đà – la – ni.


MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH


Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! Thị Chư pháp: không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; Vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; Vô nhãn giới; Nãi chí vô ý thức giới; Vô vô minh diệc, vô vô minh tận; Nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; Vô khổ, tập, diệt, đạo; Vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc Cố, Bồ đề Tát Đỏa Y Bát nhã Ba la mật đa Cố. Tâm vô Quái Ngại; Vô quái ngại Cố; Vô hữu Khủng Bố. Viễn Ly Điên Đảo, mộng Tưởng Cứu Cánh niết bàn. Tam Thế Chư Phật Y Bát nhã Ba la mật đa Cố, Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Cố Tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị Đại Thần Chú, thị Đại Minh Chú, thị Vô Thượng Chú, thị Vô Đẳng Đẳng Chú, Năng Trừ Nhất Thiết Khổ, Chơn Thiệt Bất Hư.

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa Chú, thức Thuyết Chú viết:

Yết đế, yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế Bồ đề tát bà ha (3 lần).

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Monday, May 19, 2008

# Đôi Nét về Chiều Thứ Tư trong Không Gian Bốn Chiều

Người trình bày: Thái Minh Mẫn

Thế giới ngày nay rất văn minh: con người có thể “bay” lên các vì Trăng, Sao trong các con tàu vũ trụ, có thể “lặn” xuống lòng Đại dương sâu thẳm để tiến hành các nghiên cứu khoa học, có thể xây dựng các toà nhà “chọc trời”, có thể thấy những con vi trùng, các tế bào nhỏ gấp hàng triệu lần mà mắt thường có thể nhìn thấy được, có thể đi ngược lại qui luật tự nhiên bằng sinh sản vô tính… nhưng chưa thể hiểu nổi người xưa đã xây dựng những Kim Tự Tháp Ai Cập như thế nào.

Tôi nhớ một vị chân sư trong cuốn “Hành trình về phương đông” do Nguyên Phong dịch có nói: khi nào con người hiểu được chiều không gian thứ tư thì lúc đó mới hiểu được cách thức mà cố nhân đã xây dựng kim tự tháp. Quả thật là thú vị và sung sướng nếu như ta hiểu được chiều thứ tư trong không gian bao la của Vũ trụ, để khám phá và thấu hiểu thiên nhiên, cũng như chính bản thân mình.

Với mắt thường và sự hiểu biết hiện nay, con người nhận biết sự vật quanh ta thông qua không gian 3 chiều: ngang, dọc, thẳng đứng.

Đấng Thiêng Liêng đã chỉ dạy cho Minh Mẫn, và thông qua Minh Mẫn muốn cho tất cả chúng ta hiểu được đúng minh mẫn khái niệm về chiều thứ tư trong không gian 4 chiều như sau:

Trong Kinh Dịch, Thái Thượng Lão Quân có viết, "Địa mẫu là mẹ, Dương mẫu là cha, muôn loài muôn vật là con. Cha, mẹ, con là ta. Dương là muôn loài, muôn vật. Dương làm muôn muôn muôn dương. Âm làm muôn muôn muôn âm. Trong dương có âm, trong âm có dương. Vạn vật trong VŨ TRỤ khởi đầu là DƯƠNG, kết thúc là ÂM; khởi đầu là ÂM, kết thúc là DƯƠNG. Cứ như thế con tạo xoay vần mãi không thôi.”

Nương theo lời chỉ dạy của THÀY, nhân loại được hiểu:

CHA là Càn, là Trời, là Dương, là Ta
MẸ là Khôn, là Đất, là Âm, là Ta
CON là muôn loài, muôn vật, là Ta
Trong CHA có MẸ, trong MẸ có CHA.
CON trong VŨ TRỤ khởi đầu là dương, là CHA (CHAmẹ) kết thúc là MẸ; khởi đầu là MẸ (MẸcha) kết thúc là CHA.

Như vậy:

CON (là vũ trụ=là Ta) có trong CHA MẸ; là CHA MẸ, và CHA MẸ là CON (là VŨ TRỤ=là TA), có trong CON. Có nghĩa là:



Trong Tiểu vũ trụ (trong TA) có QUÁ KHỨ- HIỆN TẠI- TƯƠNG LAI (hay còn gọi là VỊ LAI).

QUÁ KHỨ (tạm ký hiệu là dấu (–)) là những gì đã qua, đã xảy ra, tại thời điểm hay cho đến thời điểm ta đề cập về vấn đề thời gian. Nó có thể là thời thơ ấu của ta, là ngày hôm qua, là ngôi nhà cha mẹ ta mới mua khi ta được sinh ra, là con sông hiền hoà bạn đùa nghịch với dòng nước khi ấy v.v...

HIỆN TẠI (tạm ký hiệu là dấu (o)) là những gì đang xảy ra của vấn đề xét về mặt triết học hay logic của thời gian. Nó là bạn hay tôi đang hiện hữu, là tiếng “tic- tắc” của kim đồng hồ, là tiếng đập “thình thịch” của trái tim mà bạn đang cảm nhận v.v...

TƯƠNG LAI hay VỊ LAI (tạm ký hiệu là dấu (+)) là những gì sắp đến; đang bắt đầu từ hiện tại tại thời điểm ta đề cập về vấn đề thời gian và còn tiếp tục xảy ra trong tương lai (còn gọi là tương lai gần), sẽ đến.

Trong lúc có ý định sắp đặt bố cục bài học này, Minh Mẫn được THÀY “Mở” cho bài thơ, xin ghi lại để chúng ta cùng suy ngẫm CHA, MẸ muốn dạy gì cho chúng ta:


CHA VÀ CON

CON là cha, tất cả là CHA.
Maha Maha Maha*,
Đừng vì của cải mà sa đà!
Đừng mượn lời maha thóa mạ MAHA*!
Thế gian muôn trượng, muôn màu nhiệm.
Cũng là muôn muôn MUÔN HOA.
Gừng cay, muối mặn, mở lối muôn HÒA.
Đừng muốn làm “mờ”! Tất cả TÀ.
Muôn HOA mở đợi HỘI LONG HOA.

*Maha: đừng mơ tất cả là MỞ “MƠ”.
*MAHA: “Maha Bát Nhã Ba La Mật Đa TÂM KINH”.

Liên hệ MUÔN HOA với LONG HOA HỘI:

I. BẰNG TOÁN HỌC:

“Liên hệ” qua không gian phẳng với mặt cắt hình tròn:

- Tiểu vũ trụ (TA) bằng hình tròn (O): "cứ như thế xoay vần mãi không thôi.”
- Từ 3 điểm quá khứ, hiện tại, vị lai (qui ước là –A, Ao, A+ ta có thể hình thành một tam giác có các đỉnh là –AAoA+.
- Với sự chuyển dịch không ngừng của VŨ TRỤ ta có (hình 1):



- Đặt tam giác trên trong hình tròn O và cho chúng dịch chuyển ta có: Đường tròn (Vũ trụ=TA) ngoại tuyến tam giác –AAoA+ (quá khứ hiện tại vị lai= Tiểu vũ trụ= TA ), xem (hình 2).



Từ 3 điểm bất kỳ trong không gian ta có thể tạo được 1 tam giác có đường tròn ngoại tuyến mà TÂM của nó là giao điểm của 3 đường trung tuyến (chia đôi một cạnh) của tam giác đó.

- Ta có 3 đường trung tuyến –A– M, AoMo, A+M+, và tâm O (hình 3).



NHẬN XÉT (có liên hệ MUÔN HOA với LONG HOA HỘI):

1. Từ tâm O (Tiểu vũ trụ=TA) có thể “THẤY” cùng 1 lúc 3 đỉnh tam giác –A, Ao, A+ (quá khứ hiện tại vị lai) và tất cả các điểm nằm trên hình tròn O (Vũ trụ= TA) ngoại tuyến tam giác –AAoA+ (quá khứ hiện tại vị lai = tiểu vũ trụ = TA) TỨC LÀ: “THẤY” quá khứ, hiện tại, vị lai và vũ trụ trong vạn vật vũ trụ.

2. Từ tâm O (Tiểu vũ trụ =TA) có thể “THẤY” cùng 1 lúc 3 điểm –M, Mo, M+; chúng là ĐIỂM “MỞ” hay còn gọi là ĐIỂM MƠ THIỀN (trong lúc thiền định không gian được mở ra cho người tham thiền, không còn khái niệm không gian, thời gian, đối tượng “thấy” của thiền giả và bản thân hành giả, “mơ” trong thiền, “thấy” “mở” mà không “mơ”.

* Là quá khứ ( – ) : –M trên cạnh AoA+
* Là hiện tại ( o ): Mo trên cạnh –AA+
* Là vị lai ( + ): M+ trên cạnh –AAo

Có nghĩa là từ tâm O có thể “THẤY” quá khứ, hiện tại, vị lai cùng 1 lúc. Từ đó có thể suy ra –M, Mo, M+ “ĐỒNG NHẤT” với TÂM O ( Tiểu vũ trụ (TA)) là chiều thứ tư của không gian 4 chiều. Sự “đồng nhất” ở đây cũng giống như khái niệm “đồng nhất" trong toán học, nhưng nó “MỞ” hơn vì “nó” (điểm “mơ”) không phân biệt đâu là TÂM, “NÓ” cũng không khác “tâm”, tâm TA, “tâm” của VŨ TRỤ.

- Trường hợp nếu lấy giao điểm của 3 đường trung trực (đường cao chia đôi một cạnh) của tam giác –AAoA+ ta có tâm O và đường tròn nội tuyến tam giác –AAoA+ như sau (hình 4):



Từ tâm O (Tiểu vũ trụ (TA)) có thể "THẤY" cùng 1 lúc các điểm –A, Ao, A+ (quá khứ, hiện tại, vị lai) của VŨ TRỤ và các điểm +M, Mo, –M (tương lai hay vị lai, hiện tại, quá khứ) của Vũ trụ (bản thể con người, TA).

- Trường hợp 3 điểm –A, Ao, A+ nằm trên 1 đường thẳng ta có cát tuyến của hình tròn (Tiểu vũ trụ=TA) như sau (hình 5):



II. BẰNG KINH DỊCH:

Theo “Thuyết âm dương” Vũ Trụ được hình thành và phát triển như sau
(xem lược đồ 1: sự hình thành và phát triển của Vũ Trụ dưới đây):



Hay nói một cách khác,ta có sơ đồ sau:




Nếu tượng trưng hình tròn (O) là VÔ CỰC, Âm Dương (CHA MẸ) là THÁI CỰC (nửa trắng, nửa đen trên đồ hình) và “bẻ ngang” sơ đồ số 2 qua tâm đối xứng là Vô Cực-Thái Cực hay nói một cách khác sắp xếp âm, dương, quá khứ, hiện tại, tương lai (vị lai) theo theo chiều từ trái sang phải, ta có (hình 6) như sau:




- Từ tâm O (VÔ CỰC THÁI CỰC THÁI CỰC VÔ CỰC) :
Mở ra bên tay trái, theo hướng từ phải qua trái cùng 1 lúc có thể “THẤY”:
ÂM - ÂM DƯƠNG ­– âm dương ÂM DƯƠNG hay:
MẸ - MẸ CHA - mẹ cha MẸ CHA

Mở ra bên tay phải, theo hướng từ trái qua phải cùng 1 lúc có thể “THẤY”:
DƯƠNG – DƯƠNG ÂM – dương âm DƯƠNG ÂM hay:
CHA – CHA MẸ - mẹ cha MẸ CHA

Do đó,
Ta có: MẸ – MẸ CHA (VŨ TRỤ) – mẹ cha MẸ CHA (con =ta VŨ TRỤ)
Và CHA – CHA MẸ (VŨ TRỤ) – cha mẹ CHA MẸ (con=ta VŨ TRỤ).

- Tương tự như trên, nếu tạm qui ước quá khứ là âm ( – ) tương lai( vị lai) là dương ( + ) đối xứng qua hiện tại tâm O, thì từ tâm O (VÔ CỰC THÁI CỰCTHÁI CỰC VÔ CỰC ):

Mở ra bên tay trái, theo hướng từ phải qua trái cùng 1 lúc có thể “THẤY”:
QUÁ KHỨ – QUÁKHỨVỊLAI – QUÁKHỨVỊLAI QUÁKHỨVỊLAI
QUÁ KHỨ –VỊLAIQUÁKHỨ – VỊLAIQUÁKHỨ VỊLAIQUÁKHỨ
Mở ra bên tay phải, theo hướng từ trái qua phải cùng 1 lúc có thể “THẤY”:
VỊLAI – VỊLAIQUÁKHỨ – VỊLAIQUÁKHỨ VỊLAIQUÁKHỨ
VỊLAI – QUÁKHỨVỊLAI – QUÁKHỨVỊLAI QUÁKHỨVỊLAI

Như vậy:
* O là ĐIỂM “ MỞ”, là CHA, là MẸ, là CHA MẸ, MẸ CHA, cha mẹ, mẹ cha, là CON =TA, là VŨ TRỤ, là Tiểu vũ trụ.
Đồng thời,
* O là VÔ CỰC, là THÁI CỰC, là LƯỠNG NGHI, là TỨ TƯỢNG, là BÁT QUÁI, là VŨ TRỤ, là Tiểu vũ trụ, là TA.

O là KHÔNG GIAN 4 CHIỀU, là CHIỀU THỨ TƯ TRONG KHÔNG GIAN 4 CHIỀU, là ĐIỂM KẾT NỐI KHÔNG GIAN 4 CHIỀU (thể hiện trên hình 6 bằng mực đỏ).

Ba chiều không gian quá khứ, hiện tại, tương lai (vị lai) có thể nhận thấy bằng mắt thường, còn chiều thứ tư (kẻ mực đỏ) có thể chỉ “THẤY” được bằng “CON MẮT” của TÂM.

Có thể nói, bất cứ Ở ĐÂU (điểm nào trong VŨ TRỤ Vũ trụ), LÚC NÀO (QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI, TƯƠNG LAI) cũng có TA cả. Ta trong ta, Ta trong CHA MẸ, MẸ CHA, TA trong Vũ trụ VŨ TRỤ.

Đức Phật dạy chúng ta trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc v.v...” cũng chính là để cho chúng ta thấu hiểu chiều thứ tư trong không gian 4 chiều và khi vạn vật trong VŨ TRỤ chuyển dịch không ngừng, thì ta có chiều thứ n trong không gian n chiều.

Cảm ơn CHA, ĐẤNG THIÊNG LIÊNG, VỊ THÀY đã cho chúng con bài học vô cùng quí giá về chiều thứ tư trong không gian 4 chiều, để cho chúng con có thể hiểu, thực hành, và không những lý giải được những điều hiện còn là bí ẩn đối với nhân loại, mà còn chiêm nghiệm sự hạnh phúc, an lạc tuyệt vời mà CHA, MẸ, dành cho chúng con trong VŨ TRỤ MỞ bất tận.

HÃY ĐỂ MỘT LÀ TẤT CẢ, TẤT CẢ LÀ MỘT!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 04 năm 2008
Tức 16 tháng 3 năm Mậu Tý

Sunday, May 18, 2008

# Nghe: Thượng Đế Giảng Chân Lý

Download Mp3 files
Phần A | Phần B

(Để download bằng megaupload xin click vào link trên, nhập kí tự theo yêu cầu, rồi chờ 45 giây theo như hướng dẫn, sau đó click vào link download free)

# Kỉ Niệm về một Chuyến Hành Hương

Người trình bày: Thái Minh Mẫn

Chân cứng đá mềm

“Một ngày bằng mấy trăm năm người ơi!” Chẳng biết câu “than thở” mà người ta hay “rền rĩ” như vậy xuất hiện từ đâu, song đối với tôi (Minh Mẫn) đó là chặng đường dài của kiếp người luân hồi sinh tử. Muốn thoát khỏi cảnh trầm luân của một ngày đó, người ta không còn con đường nào khác là đi tìm CHÂN LÝ. Hành hương đi tìm chân lý cũng là một trong các “thủ pháp” của người tu.

Nói đến Thất Sơn thì ai cũng có cảm giác rằng vùng này chứa đựng biết bao huyền bí mà người nào có hiếu kỳ đến đâu cũng khó mà tìm hiểu cho tận tường. Tôi thích đi vùng Bảy núi vì có thể thu được nhiều thanh điển, và thực tập thiền định, gom ngươn thần hàng giờ mà không bị ai quấy rầy.

Tôi thức giấc sau một buổi trưa ngủ chập chờn, vì nghe Thày đánh thức “con điện thoại bảo bà Lành trở về nhà cùng đi núi.” Sợ mình tự kỷ ám thị nên tôi thưa với Thày: “Thày ơi có phải con tự kỷ ám thị?”

“ Không, Thày nói đó.”

Một buổi chiều khi tôi đang thực tập luyện công phu, bà Lành (người cho phép tôi được gọi bằng mẹ) nói cho tôi biết có một người bạn của Vũ, con mẹ Lành, hiện đang sinh sống ở bên Nga, bị rất nhiều bệnh, đã uống thuốc hai năm rồi không bớt, hiện đang về Việt Nam chữa bệnh và bảo tôi xin Thày cho họ bài thuốc chữa bệnh.

“Chào thày,” tiếng Tiến, người bạn của Vũ trong điện thoại. Tôi giãy nảy bảo xin anh cứ xưng hô bình thường tôi có làm gì mà anh kêu tôi bằng thày. Thế là anh bạn bắt đầu kể cho tôi nghe những chứng bệnh mình mắc phải và được tôi đề nghị bay vào thành phố Hồ Chí Minh để gặp tôi.

Một trung niên trắng trẻo, đẹp trai nhưng gương mặt có vẻ mệt mỏi. Tôi giúp anh bạn chữa bệnh lần đầu tại nhà mẹ Lành và hai lần sau hẹn tại bệnh viện nơi tôi đang chăm sóc người mẹ ruột bị ngã chấn thương sọ não. Qua trao đổi người bệnh trở thành bạn học cùng khóa ngoại ngữ, khoa dự bị đại học ngoại ngữ ở Thanh Xuân - Hà Nội năm xưa, thật là mừng vui. Tôi đề nghị bạn cùng tham gia chuyến đi núi để tôi tranh thủ thời gian gần người bạn và chữa cho.

Phóng nhanh từ bệnh viện về nhà, tôi thắp nhang quì xuống chân Thày Mẹ, các Đấng Thiêng Liêng, cửu huyền thất tổ nội ngoại cầu xin Ơn Trên gia hộ cho đòan đi được bình an, khai mở trí huệ, tu tập tiến bộ sau chuyến đi núi, thuận lợi về thời tiết vì mấy bữa nay ở Sài Gòn mưa quá.

Tiến đã rất khó phải quyết định cùng trèo núi cùng chúng tôi, nhưng được động viên, nên đúng 10 giờ sáng, ngày thứ năm 1/5/2008 (tức 27/04 năm Mậu Tý), dưới sự dẫn dắt của Thày, đoàn chúng tôi gồm 10 người: mẹ Lành, bố Thuận (chồng mẹ Lành), vợ chồng anh Tứ - chị Nga, anh Hưng, Hiểu, Quang (lái xe), Hùng (lái xe), Tiến và tôi xuất phát.

Hai chiếc xe đời mới bon bon thẳng tiến

“Về An Giang với lúa đồng thơm ngát
Nước Thoại Hà tưới mát quê hương
Qua nhịp cầu Hoàng Diệu mến thương
Đây Châu Đốc Tây An Cổ Tự”

Mười hai giờ trưa chúng tôi tìm một quán nước sạch sẽ dọc đường dở bánh chưng, ngô luộc, bánh mì phô mai ra thay cho bữa trưa. Bốn giờ chiều ngày hôm đó chúng tôi đã “trực chỉ” chùa Phật Tây An hay còn gọi là chùa Phước Điền hay Trại Ruộng.

Trại Ruộng ở xã Thới Sơn, huyện Nhà Bàn cách núi Sam hơn 10 kilô mét. Ngày xưa khi lập xong Đức Phật Thầy Tây An giao cho ông Tăng Chữ và ông Đình Tây ở giữ. Tại Phước Điền Tự còn có hai đôi liễn thờ ở bàn chánh và ngoài cửa ngõ. Người ta bảo là của Đức Phật Thầy chỉ cho tín đồ viết và lưu truyền đến ngày nay.

Cảnh chùa vẫn như xưa thật thanh tịnh và có phần đẹp hơn trong mắt tôi. Chúng tôi thăm lại giếng Tiên (tục truyền nơi đây Đức Phật Thầy Tây An dùng huyền linh lấy nước giếng chữa bệnh cho dân), thăm hồ (ao) sen trắng mà năm ngoái khi chúng tôi xuống, nơi đây khô cằn không có một giọt nước, bà Lành hảo tâm đã giúp nhà chùa làm hệ thống máy bơm lấy nước từ con kênh vào cho dân vùng này xài. Mùi hoa sen thoang thoảng khiến tôi thầm ước có thể lội xuống, ngắt những bông sen đẹp nhất dâng lên Đức Phật Thầy. Cây cột phướn vẫn sừng sừng trước sân chùa với hai “Ông hổ” bảo vệ hai bên. Chúng tôi vào điện thắp những nén nhang dâng lên Đức Phật Thầy sau hơn sáu tiếng đồng hồ di chuyển.

Đón chúng tôi là anh Hai Béc trụ trì chùa và cháu Lãm. Tôi và mẹ Lành là người trong đoàn lần thứ hai tới chùa này. Anh Tứ thì đã thành “thân chủ” vì đã đến đây lần thứ ba. Anh Hai Béc giới thiệu cho đoàn biết một số hiện tượng khó giải thích xảy ra trong chùa như có một dạo cột chùa nóng như lửa đốt 4, 5 ngày xã có cử người xuống khảo sát và kết luận nóng do dây điện, nhưng chúng tôi thấy sợi dây điện chạy cách xa cây cột, và anh Hai Bec chỉ cho chúng tôi một bà mẹ có đứa con chừng 7, 8 tuổi tim bị ngừng đập ở bệnh viện. Mẹ cháu bế nó vào chùa này một hồi nó tỉnh lại và hiện đang chạy chơi tung tăng.

Năng lượng ở đây rất nhiều, chúng tôi vừa nghe anh Hai Béc giới thiệu vừa tĩnh tâm thu năng lượng.

Cây cột phướn sừng sững trước chùa

Tôi thật sự lo lắng: với trách nhiệm làm “hướng dẫn viên du lịch” cho đoàn nhưng cho đến bây giờ chưa biết nói với đoàn mình sẽ đi đâu. Tôi “thầm” hỏi, Thày chỉ dạy: “Điểm đầu tiên Tà Lơn.” Thế là đề tài đi Tà Lơn một địa điểm núi hùng vĩ, nhiều màu nhiệm, đẹp đẽ được đưa ra tranh luận, cuối cùng chúng tôi thất vọng vì chuyến đi Tà Lơn phải mất ít nhất 7 ngày trong khi chúng tôi được Thày cho phép hành hương có 3 ngày, mặt khác nó lại nằm bên kia biên giới. Chúng tôi mừng trong bụng và nghĩ rằng Thày đã “chuyển” đi Tà Lơn vậy là trước sau cũng có ngày chúng tôi được đặt chân tới đó.

Bữa cơm tối tại Trại Ruộng thật ấm cúng, tôi ăn ngon lành, nhưng chắc Tiến không ăn được vì bệnh tật và mệt mỏi. Thấy bộ bàn ghế ăn cơm của nhà chùa cũ kỹ quá, mẹ Lành, anh Hưng, Tiến, và tôi đóng góp một ít để đóng thêm mười bộ bàn ghế ăn cơm cho chùa. Tất cả chuẩn bị để mười giờ tối ra sân chùa ngồi trước cột phướn như Thày mật lệnh cho chúng tôi. Tôi thầm nguyện xin Thày ban điển thiêng và cho chúng tôi được thấy linh ảnh Thày, hoặc Đức Phật Thầy Tây An như chuyến đi hồi năm ngoái.

Thày chỉ dạy cho tôi: cột phướn là biểu tượng sự kết hợp âm dương nói nôm na nó như một cây “thu lôi” (thu năng lượng vũ trụ). Tôi có cảm nhận hình như cột phướn được dựng lên theo một nguyên tắc và ở những nơi nhất định. Tôi nhớ lại trong chuyến đi núi năm ngoái, mười hai giờ đêm tôi và mẹ Lành cũng đã được cô Năm Thảo hướng dẫn theo “mật lệnh” của Mẹ ra trước cột phướn của một ngôi chùa đạo Cao Đài trên núi Ông Cấm để nhận điển Cha. Và đêm ngày mùng tám rạng mùng chín tháng giêng năm Đinh Hợi (2007), mẹ Lành, tôi, anh Tứ và cô Năm Thảo cũng quì dưới chân Cha ở Tòa Thánh Tây Ninh. Trước Tòa Thánh cũng có cây cột phướn mà Đức Hộ Pháp có đề cập tới sự phát triển của cây bồ đề trước sân với nó (cột phướn) báo hiệu ngày Đại Hội Long Hoa. Phải chăng những điểm đó là những “huyệt đạo” chính của Trái Đất trong thời kỳ Vũ Trụ dịch chuyển này?

Buổi tối ở miền quê yên tĩnh nên mới tám giờ khách hành hương viếng chùa đã buông màn đi ngủ. Sau bàn trà chỉ còn lại tôi, anh Hưng, Tiến là hai bệnh nhân của tôi, Hiểu và cô Năm Thảo (người bạn đạo chuyến trước làm hướng dẫn viên cho đoàn tôi và mẹ Lành lên thăm chúng tôi).

Muỗi nhiều quá! Tôi chữa bệnh cho anh Hưng và Tiến sau cùng. Tôi rất mừng vì cả hai đều có cảm giác bớt, nhẹ nhàng hơn sau khi chữa. Đúng mười giờ tất cả thành viên trong đoàn tự động ra sân chùa trước cột phướn ngồi thiền. Tôi giúp Tiến mang chiếc ghế tựa ra ngồi vì Tiến bị đau lưng không ngồi bệt sát đất được.

“Lạy Thày, muỗi nhiều quá, con xin Thày ban điển và huyền linh cho anh em trong đoàn.” Chúng tôi ngồi thiền khoảng nửa tiếng, chẳng ai nói gì và thấy gì cả. Họ đã trở vào màn đi ngủ. Tôi lạy Thày 12 lạy và trở vào đàm đạo với Hiểu và đặt lưng vào lúc 1 giờ 20 phút sáng.

Sáng dậy, ngồi trong màn cô Năm Thảo nói với tôi: chuyến đi đợt này sẽ bị đảo lộn cho mà xem vì chị không ghé vào điện Mẫu (tại nhà cô Năm) thắp nhang trình Mẫu chuyển, em đã nói với anh Hưng ngay từ đêm qua. Tôi vội vã phân bua vì nghĩ rằng ở đâu cũng có Cha Mẹ cả, tôi đã trình Cha Mẹ trước khi đi. Mà quả thật khi đi ngang cô Năm Thảo không một ai trong đoàn có ý nghĩ ghé điện Mẫu trình Mẹ. Mẹ từ bi không bao giờ trách lỗi chúng con đúng không thưa Mẹ? Nhưng dù sao tôi vẫn muốn cô Năm thông cảm cho chúng tôi, nhất là tôi “người có được điển Thày,” chúng tôi vẫn nhớ ơn cô hướng dẫn trong chuyến đi núi năm xưa, nhờ đó chúng tôi được quì dưới chân Mẹ ở Điện Mẫu nhà cô, nhờ đó chúng tôi biết được Trại Ruộng…

Sau bữa ăn sáng và hỏi chuyện một vài người vừa đi Tà Lơn về về chuyến đi Tà Lơn của họ, đoàn chúng tôi chia tay và cảm ơn sự tiếp đón, giúp đỡ của các huynh đệ chùa Phước Điền.

Điểm đầu tiên trong chuyến “hành trình về phương đông II” của chúng tôi vào tám giờ sáng ngày 2/5/2008 là núi Ông Két.

Núi Ông Két (Anh Vũ Sơn) nằm trong thất sơn, có độ cao 225 mét, dài 1100 mét, ngang 1000 mét, thuộc địa phận Thới Sơn, Nhà Bàn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Người ta gọi núi Ông Két vì mỏm đá giống hình con két.

Mẹ Lành ở lại dưới chân núi lo hậu cần cho đoàn, hai bác tài ở lại trông xe trong sân một nhà hàng lý tưởng ngay dưới chân núi. Tiến đi cùng tôi một đoạn đến chân núi thì quay ra nhà hàng và bảo bạn đi đi tớ quay về vì mệt leo núi không nổi đâu.

Những bậc thang thoai thoải dễ đi nhưng cũng khiến chúng tôi phải mất 30 phút mới leo lên được trạm đầu tiên, điện Ông Két. Tội nghiệp nhất là anh Hưng: càng lên cao tim càng bị ép khó thở tưởng chừng như phải bỏ cuộc nhưng với quyết tâm cao anh Hưng là người cuối cùng cũng leo lên được.

Cảnh núi non hùng vĩ, xa xa những dãy núi mờ ảo, những cánh đồng lúa xanh mơn mởn, gió mơn man da thịt chúng tôi, thật là bồng lai tiên cảnh chứ không phải trần gian. Điện Ông Két (điện Năm Non Bảy Núi) thờ Tam Bảo với hình Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ đề và các vị Sơn Thần (Chư vị Năm Non, Chư vị Bảy Núi). Hai dòng chữ màu vàng nổi bật ghi lời nói của Đức Huỳnh Giáo Chủ làm chúng tôi càng có ấn tượng sâu đậm về sự linh thiêng chốn này:

“Trên NĂM NON rồng phụng tốt tươi,
Miền BẢY NÚI mà sau báu quí.”

Chúng tôi đảnh lễ các Đấng Thiêng Liêng, các vị Thần linh. Anh Tứ say sưa với chiếc máy quay phim trong tay. Đến lượt mình sau khi hỏi ông gác núi, anh Tứ “thoắt” lên tượng một con hổ vằn trong tư thế điệu nghệ để chụp, chị Nga, cậu Lãm được hướng dẫn bấm máy nhưng thật là lạ khi kiểm tra lại trong máy không có một tấm hình nào của anh Tứ. Tôi nghe tiếng nhắc bên tai “Nguyễn Tứ đã không nên làm như vậy!” và nhắc lại lời này để anh Tứ biết và sám hối. Âu đây cũng là một bài học cho tất cả cần phải thận trọng trong từng lời nói hành động ở những nơi linh thiêng.

Tôi đắm ánh mắt vào tượng một con hổ “Minh Mẫn biết Năm Ông (Ông Hổ) chữa bệnh rất tài tình vậy xin Năm Ông để Minh Mẫn gọi Tiến lên đây, các Ông hỗ trợ Minh Mẫn chữa bệnh cho Tiến nhé.” Các vị Sơn Thần đã ủng hộ tôi. Tôi thầm cầu nguyện xin Cha Mẹ, các Đấng Thiêng Liêng, các vị thần linh giúp cho Tiến leo được lên chỗ này.

Tôi điện thoại cho mẹ Lành và nói mẹ cho Quang kè Tiến lên. Như có ai đưa chân Tiến, trong khoảng thời gian chưa đầy 15-20 phút Tiến và Quang đã có mặt. Tôi chữa bệnh cho Tiến trước và sau đó hỏi lại cảm giác của Tiến lúc được chữa bệnh. Tiến nói cảm giác lúc đó Tiến bồng bềnh như đi trên mây, toàn thân, lưng vẫn nóng dễ chịu như mấy hôm chữa trước và Tiến thấy một cái phễu không có đuôi như miệng núi lửa, màu mặt trời mọc bay trước mặt Tiến lúc thì xa xa ngoài chân trời lúc thì bay lại gần Minh Mẫn, nhưng lúc gần Minh Mẫn nó nhỏ hơn.

“À , mà mình quên nói với bạn tối hôm qua lúc bạn chữa bệnh cho mình, mình nhìn thấy Thái Thượng Lão Quân, chỉ thấy mặt và chòm râu dài, thời gian khoảng 1 đến 1,5 giây, ngay trên đầu, hơi xa bạn một chút, mình biết đấy là Thái Thượng vì mình đã nhìn thấy Ngài qua ảnh.” Tiến từ tốn nói với tôi nhưng tôi thấy trong ánh mắt của bạn niềm sung sướng khôn tả, nét mặt hồng hào, rạng rỡ của người bệnh vừa được tiếp nhận nguồn điển linh thiêng của Thày Mẹ ban cho .

Cảm ơn Thày đã cho đoàn chúng con chứng nghiệm huyền linh, Thày đã ban linh điển cho Tiến, một người đang sinh sống ở nước ngoài, chưa hiểu biết nhiều về tâm linh, thật là hồng phúc cho bạn ấy. Năm ngoái cũng tại ngôi chùa Phước Điền lúc mười giờ tối con cũng đã được Thày cho thấy Linh Ảnh của Thày. Theo Thày tu tập từ đó đến nay con đã đạt được một số tiến bộ nhất định.

Trong lúc tôi chữa bệnh, đoàn tiếp tục lên đỉnh gọi là “Sân Tiên.” Tất cả đều cho những người ở lại biết là cảnh trên đó rất đẹp. Tôi không tiếc vì không được ngắm Sân Tiên, cảnh tiên, ngược lại sung sướng vì tôi đã được quá lớn. Cái được, và điều đáng mừng “hết lớn” đó là những kinh nghiệm mà bạn tôi và anh Hưng được trải qua ở đây trong lúc chữa bệnh này và điều quan trọng mà Tiến đã quên không thông báo cho cả đoàn biết là tối hôm qua thấy Thày.

Xem lại cuộn phim về chuyến đi này mà anh Tứ đưa cho tôi và đã đặt cho nó một cái tựa đề “rất kêu” là “kỷ niệm chuyến đi núi An Giang mở mầu”, tôi “nhớ” lại trên “Sân Tiên”, nơi tôi đã không được “trèo” lên đấy ngắm cảnh. Bên tai tôi văng vẳng tiếng cháu Lãm đọc câu thơ của Cậu Hai Thanh Sĩ, một đệ tử của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong cuộn phim đó:

“Có con chim đá nổi đá từ lâu;
Tới chừng có máu thấm vào nó vùng vẫy”

Biểu tượng mỏ con két bằng đá, con két màu xanh trên Sân Tiên, Con Két ấy muốn nói gì với ta? Thôi đúng rồi! Một con chim bị thương do trúng tên, nó vùng vẫy vì mình đẫm máu. Nó đã bị chiếc cung tên (nỏ thần) của An Dương Vương khi vô ý trao lầm tay giặc bắn trúng. Có thể Thày đã ngầm cho chúng tôi biết tại chốn này 6000 năm trước đây vua An Dương đã không thể bách chiến bách thắng quân thù vì để mất nỏ thần - mất sự anh minh của một vị vua? Con chim Két xinh đẹp trên “Sân Tiên” ấy có phải là con Phượng Hoàng (Anh Vũ, con chim anh dũng) của nước Việt Nam sau này hay không? Con “chim đá” này có liên quan gì đến “đá nổi từ lâu”?

Khoảng mười hai giờ trưa chúng tôi xuống núi, mẹ Lành đã chuẩn bị bồi dưỡng cho một số thành viên trong đoàn cháo tắc kè, gà… Ba mẹ con chúng tôi (mẹ Lành, Lãm và tôi) ngồi riêng một bàn với những món ăn thanh đạm thông lệ và đàm đạo về cuộc hành trình tiếp theo. Mẹ Lành bảo đi tiếp một điểm Thày chuyển là đá nổi rong chìm rồi tối nay về Sài Gòn. Nghe mẹ nói mà lòng tôi hụt hẫng: chẳng lẽ bỏ công sức đi xuống đây mới được một tí mà đã về sao, Thày bảo đi 3 ngày cơ mà, nhưng tôi không dám nói. Vừa lúc đó tự nhiên Lãm nói còn một điểm này nhất định bà Lành phải đi. Tôi nghe Thày nói: “Bảo nó nói ra đi.” Lãm bảo điện Tàu Cau (Trung Tòa) ở núi Dài. Chắc nó áy náy trong bụng là núi Ông Két không cao, chú Tiến và chú Hưng bệnh như vậy mà còn lên “thăm Ông Két” được. Tôi cảm nhận Thày đã sắp xếp cho chúng tôi ngủ lại đêm trên núi Dài.

Ba Lãm tiếp tục dẫn ông bà và các cô chú đi tới “gặp” Thần Kim Qui. Đây là một hòn đá sống, theo cô Ba năm nay 84 tuổi kể từ thời mẹ của cô đã có hòn đá này, nó tự lớn ra, nay là một quả núi con với hình giống con rùa, và đặc biệt thời gian sau này lại thêm một chú rùa con cạnh mẹ. Chúng tôi vào nhà thắp nhang đảnh lễ Phật và đi vào hang (dưới bụng Ông Rùa) tới bàn thờ lạy Mẹ Quan Âm. Tôi dựa lưng vào tường đá mát lạnh, nhắm mắt. Mẹ đã “đặt” vào trán tôi một bông mai năm cánh và nói với tôi: “Mẹ ban cho con bông mai này, để con chữa bệnh giúp người cho tốt.” Tôi vui mừng hết sức và cảm ơn Mẹ. Chúng tôi nghỉ chân dưới tán một cây nhãn và được cô Ba cho biết sở dĩ cây nhãn này có hình giống như một cây dù vì khi nó còn nhỏ cô khấn nguyện Ơn Trên độ cho nó có tán như cây dù để bá tánh đến đây ngồi nghỉ ngơi khi thăm viếng Ông Rùa.

Tôi cứ thắc mắc mãi tại sao Thày lại chuyển chúng tôi đến thăm Thần Kim Qui khi tôi đang hoàn thành bài viết này. À, hóa ra đây là Thần Kim Qui đã hiện lên để trao cho An Dương Vương cây nỏ thần để giữ nước năm xưa mà sau này khi sang núi Thủy tôi liên hệ được bài học về lịch sử. Thế còn tại sao hai con rùa một mẹ một con? Không sai. Sự tồn tại của hai thế hệ cha truyền con nối: Mẹ Âu Cơ đẻ trăm trứng dẫn con đi xuống biển chỉ có thể là Rùa Biển. Mẹ vẫn đang nâng đỡ con mình, biết đâu mai nay Rùa Con khôn lớn sẽ lại trao cho một An Dương Thái Tử cây nỏ thần để giữ nước, lịch sử sẽ lặp lại chăng?

Xe chúng tôi chuyển bánh tiếp về Ba Chúc, An Giang trên đoạn đường đầy những ổ voi khiến chúng tôi lắc lư trong xe, nhưng thiếu những điệu nhạc đệm phát ra từ máy hát. Đoàn chúng tôi đến thăm điện Diêu Trì Phật Mẫu. Cháu Lãm nói với tôi, chùa này Đức Phật Thầy Tây An đã ra lệnh cho xây. Đây là một ngôi chùa một tầng, hông chùa chạy dài theo đường tỉnh lộ, mà ngay đó, giữa đường lộ có cây gió bầu hàng trăm tuổi đang bị chết do lưu lượng xe đi qua hàng ngày gây chấn động, trên ngọn của nó những nhánh bồ đề đang xum xuê cành lá, phải chăng đó là dấu hiệu báo chờ ngày Đại Hội Long Hoa? Theo thiết kế mặt chính của chùa quay về hướng đông nam, thực tế cửa hông chùa mở cho khách hành hương vào thăm theo hướng nhìn ra lộ nơi có cây gió bầu - bồ đề (cột phướn?). Thày đã gật đầu, ngầm xác nhận câu hỏi của tôi phải chăng Mẹ đã cho lập điện thờ này để chuẩn bị cho Ngươn III - Long Hoa Tại Thế?

Chúng tôi thắp nhang bàn thờ Trăm Quan, lạy Mẹ rồi tiếp tục lên đường qua Thủy Đài Sơn (núi Nước) ở gần đó. Tại sao ở đây người ta thờ Trăm Quan? Thày giảng giải cho Minh Mẫn hiểu là mỗi họ như họ Trần, họ Nguyễn, họ Lê… đều có “Cụ Tổ”của mình, là những người tu đã đắc đạo được Bề Trên giao trách nhiệm dạy dỗ con cháu mình. Thày đã hướng họ, con cháu họ đến Long Hoa Hội? Thời kỳ mạt pháp có nhiều đạo giáo được hình thành và các Vị Thày Tổ xuất hiện như những minh sư để hướng đạo cho con cháu mình?

Núi Nước là hòn núi nhỏ nhất, nhỏ hơn tất cả những ngọn đồi và núi khác, gần như đất bằng, cao không quá 50 mét, ở gần núi Tượng. Hàng năm mùa nước lên, núi ở giữa, chung quanh là nước nên gọi là Núi Nước. Trên núi có một ngôi chùa gọi là Thủy Đài Sơn. Có những ngọn núi khá lớn như núi Trà Sư, núi Phú Cường, Nam Vi, núi Sam… lớn hơn núi Nước nhưng không có tên trong ngọn Thất Sơn. Theo người xưa thì Thủy Đài Sơn này có một cây “ếm”, chính Đức Bổn Sư đã mở cây “ếm” đó. Có lẽ sau khi mở cây “ếm” Đức Bổn Sư đã cho đắp một cái hồ con rùa tượng trưng khuôn viên chừng 3 mét x 3 mét mà bạn thấy đấy: ngay trên ngọn núi Nước này? Hồ con rùa tượng trưng ở Núi Thủy có liên quan gì đến Hồ Gươm ở Thủ đô ngàn năm văn hiến ngày nay?

Tiến ở lại phía ngoài uống thuốc, một số leo lên đỉnh núi xong trở về xe, chỉ có tôi, anh Tứ và bố Thuận xuống hang trong lòng núi. Tại đây chúng tôi được một cô “gác động” dẫn vào bên trong. Đó là một cái hang dưới núi, ở đây người ta thờ Địa Mẫu. Chúng tôi được kể cho nghe về “thiên cơ” là dưới lòng ngọn núi Thủy trước đây là biển ( có lẽ không sai vì theo một tài liệu của ông Trần Hữu Thành thì tất cả núi Việt Nam do dãy Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) chạy dài xuống phía nam, khi trồi lên, khi lặn xuống và chấm dứt ở miền đông bắc nam Việt Nam, để rồi tủa gần ra miền tây bắc nam Việt Nam thành các dãy núi ở Châu Đốc và Long Xuyên sau thời kỳ địa chấn lần thứ ba (thời tiền sử), thêm một điều nữa, các nhà địa lý học còn cho rằng “miền tây nam nước Việt trước kia là vịnh biển và hòn đảo, nay được bồi đắp và trở thành ruộng rẫy và núi non”, thật đúng như lời người xưa:

Thương hải biến vi tang điền
(Biển xanh biến thành ruộng dâu),

về sự tích bức tượng Địa Mẫu, hình ảnh Địa Mẫu được tự nhiên “tạc” vào trong đá, về những bí mật theo tương truyền về ngọn núi linh thiêng này với tảng đá sống ngày càng lớn ra như một con tàu, những dấu chân trên “núi” đá sống mà “trí tưởng tượng” cho là dấu chân An Dương Vương, chiếc búa (thay vì nỏ thần) An Dương Vương, hình ảnh Mỵ Châu, Trọng Thủy, những tảng đá có hình giống như bánh lái con tàu, hai chú voi đá của Hai Bà Trưng…

Tôi cảm nhận dưới ngọn núi là biển chạy dài đến mũi Cà Mau, khi xưa nơi đây là Thành Cổ Loa. Năm xưa Vua An Dương đã mất cảnh giác :

“Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu”
(Tố Hữu)

đã lái con tàu của đất nước chìm xuống biển sâu. Và chính nơi đây Hai Bà Trưng đã chiến đấu chống giặc phương Bắc, dấu ấn cặp voi để lại để sau này con cháu nhớ công ơn Hai Bà như một trang hào hùng trong lịch sử, dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Chia tay Thủy Đài Sơn, chúng tôi tiếp tục hướng về Ngọa Long Sơn (Núi Dài).

Ngọa Long Sơn cao 580 mét, dài 8000 mét, ngang 500 mét, xưa thuộc 4 thôn Châu Lăng, Lương Phi, Ba Chúc, Lê Trì, thuộc tổng Thành Ngãi, quận Tri Tôn. Người ta đặt tên như thế là vì núi này dài tới 8000 mét, trong sách gọi là Ngọa Long Sơn vì nó giống như hình con rồng đang nằm.

Xe chúng tôi men theo con đường trải nhựa bằng phẳng, rừng cây hai bên đường tạo cho chúng tôi cảm giác mát mẻ, yên tĩnh, thanh bình, thoải mái, dễ chịu dưới chân núi. Chúng tôi bị cuốn hút vào một vựa xoài dưới chân núi. Xoài ở đây không được ngon lắm nhưng gặp khách chủ vựa cũng bán được cho chúng tôi với giá 6000 đồng/kg.

Gửi xe lại, chúng tôi lấy đồ đạc cần thiết cho một đêm rồi Ba Lãm quẩy trái mít (tôi hảo mít lắm) tôi mới “tậu” làm “tiên phuông.” Phải nói “trèo” núi này có phần dễ hơn “Ông Két” vì các bậc đá tuy cũ kỹ nhưng triền dốc thoai thoải, tôi với anh Hưng, Hùng đi sau cùng vì anh Hưng lại bị mệt do lên cao.

Để hành lý tại Điện Tàu Cau (người ta gọi thế chắc vì đó chỉ là một khoảnh bằng phẳng được lát gạch bông độ 40 mét vuông được “khoét” vào trong núi, nếu ai để ý kỹ có thể liên tưởng đến chiếc tàu cau (lá cây cau ăn trầu) làm mái che mưa nắng cho khách hành hương), chúng tôi thắp những nén nhang dâng lên ngôi Tam Bảo, Trời Đất và lên mỏm cao hơn thắp nhang, ngồi thiền bắt ấn theo sự hướng dẫn của Thày (tôi nhớ lại cách bắt ấn Thày chỉ dạy khi ở Trại Ruộng và núi Ông Két khác với cách bắt ấn lúc này). Từ đây nhìn ra xung quanh một cảm giác khác so với khi ở bên “Ông Két”. Nhìn lên trời cao, tôi như đang thấy mình đứng lơ lửng giữa chín tầng mây, và một cảm giác khó tả tràn đầy: chúng con đang rất gần với Thày Mẹ.

Dòng chữ Tàu, vâng, có lẽ không phải là tiếng Phạn, lơ lửng trước mặt tôi càng làm cho tôi thấy một điều “thiên cơ bất khả lộ”. Phải chăng nền văn hoá Tây Tạng huyền bí được bắt nguồn từ nơi đây và con rồng Thăng Long đang ẩn mình dưới lòng đất Núi Dài chờ ngày đón Minh Vương Thánh Chúa? Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với núi sông hùng vĩ, từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, người ta không thể không nhắc đến Mẹ Âu Cơ dẫn con xuống biển gửi gắm những đứa con của mình cho Đại Dương bao la, những "chú Rồng con” đang được Biển Mẹ ôm ấp, nuôi dưỡng, (một ngày nào đó sẽ “thăng” theo dòng Cửu Long), đợi ngày “đoàn tụ” cùng trăm trứng của Lạc Long Quân - những “cô Phượng Hoàng” trên núi Gấm (mà ngày nay người ta đọc trại ra là núi Cấm (cấm người lên khi chưa được “phép”). Bản hùng ca mà Hà Nội sắp cất lên chào đón Thăng Long Hà Nội ngàn năm liệu có hòa chung điệu nhạc trầm bổng đón Rồng Vàng thức giấc? Phải chăng Trời Đất sẽ dành cho dân tộc Việt Nam, con Rồng cháu Tiên, dòng dõi Âu Cơ một thời điểm huy hoàng được chứng kiến Rồng Phượng song đôi? Tôi cảm nhận chúng tôi đang được Thày gợi mở đôi điều về truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân.

Khoảng 30 phút sau chúng tôi phải trở lại điện Tàu Cau vì sợ lát nữa khi ông mặt trời đi ngủ, trở xuống sẽ nguy hiểm. Tôi cùng Lãm vào Điện Mẫu thắp nhang xin Mẹ chỉ dạy về chuyến hành trình ngày mai. Mẹ bảo chúng tôi cần đi thêm một địa điểm nữa, (Lãm tìm trong ký ức và nói lên đó là đền Vĩnh Hanh. Vậy là trước khi đi rong chìm đá nổi chúng tôi sẽ ghé thăm đền Vĩnh Hanh) đồng thời chỉ dạy thêm rất nhiều điều cho các thành viên trong đoàn.

Tôi sợ quên nên nói to với Lãm và nhắc lại những điều Mẹ chỉ dạy để nó “nhớ phụ” tôi, đại ý mẹ Lành phải uống bài thuốc nghệ mật ong (có trong trang web “của quí Thày cho”), anh Hưng phải làm lễ cầu xin Trời Đất giúp cho khỏi bệnh tim và nên tập hít thở, tự chữa bệnh không cần dùng thuốc, còn Tiến thì chỉ được tôi chữa bệnh năm lần (đúng như Thày đã nói với Tiến ngay từ lúc đầu khi ở nhà mẹ Lành), phải bỏ uống thuốc tây, còn lại mọi thứ Mẹ sẽ lo…

Dòng chữ bí hiểm trên trần điện Tàu Cau

Vợ chồng anh chị Sảnh cai quản khu vực này cũng lên núi khi màn đêm buông xuống tiếp chuyện chúng tôi một lát rồi trở xuống. Mẹ Lành và tôi gửi chị một ít tiền nhờ mua bông trái cây để sớm mai cúng Mẹ vì mai là ngày 28 âm lịch, vía Mẫu. Tôi chợt nhớ tới câu nói trong dân gian:

“Mùng năm, mười tám, hai ba
Là ngày vía Mẹ, vía Cha đi mừng.”

Chị Sảnh bảo với chúng tôi, nếu muốn mua bông thì phải đi chợ rất xa, ở đây chỉ cần hái bông rừng cúng Mẹ. Tôi tưởng tượng chúng tôi sẽ hái được những nhành phong lan, những cành hoa màu tím biếc mà tôi vừa thấy ở trên bàn thờ thiên để dâng lên Mẹ.

Bữa tối hôm đó chúng tôi tự nấu cơm (gạo có sẵn trong bếp) ăn với muối mè chị Nga mang theo và “làm thịt” quả mít để tráng miệng. Đã hai ngày nay khi đi xa sợ không có toilet chúng tôi (nhất là phụ nữ) không không dám uống nước nhiều. Quái ác thay, lúc này trời tối quá, tôi lại mắc đại tiện nhưng ở đây không có toilet, anh Tứ “xung phong” dẫn tôi đi tìm chỗ. Hai chiếc màn to được giăng lên chứa hết tám người. Anh Tứ nằn nì tôi chữa cho anh cái khối u sau gáy và tả cảm giác khi được chữa bệnh năng lượng xuống 2 cánh tay và “buồn buồn” ở vùng khối u. Chúng tôi chìm vào giấc ngủ trong những tiếng kêu rả rích của côn trùng…

Buổi sáng trên núi thật sảng khoái, vài người trong chúng tôi lại trèo lên mỏm đá cao hướng về Đấng Sáng Tạo để thu năng lượng. Tôi nghĩ tới người mẹ già đang nằm trong bệnh viện và cầu nguyện Ơn Trên gia hộ. Những giọt nước mắt thương cảm mẹ già lăn trên đôi má, tôi nghe Thày nhắc con ngửa mặt lên trời. Tôi vâng lời Thày ngửa mặt lên trời: bầu trời cao xanh thẳm, một khoảng không bao la xâm chiếm tâm hồn tôi, tôi hiểu: lời nguyện cầu của con Chúa đã nghe…

Một làn gió mát, rồi mát lạnh kéo đến, tiếp theo là những đám mây đen chuyển thật nhanh. Mưa! Chúng tôi nhanh chân trở về Điện, bố Thuận đã chuẩn bị cho chúng tôi mỗi người một tô mì chay. Mưa to quá! Mưa phủ trắng cả một vùng núi, mưa hắt ướt hết khoảng gạch nơi chúng tôi ngồi, một vài dòng nước mưa luồn theo mạch đá núi nhỉu tong tong vào nơi chỗ tôi, mẹ Lành, anh Tứ và anh Hưng đang ngồi. Tôi nói với mẹ Lành: ngày hôm qua mình đi trời đẹp, nắng nhẹ, không mưa, Trời Phật thương và gia hộ cho chúng ta chứ nếu tối hôm qua Thày Mẹ cho mưa lớn như thế này thì khỏi ngủ. Mẹ Lành tỏ ra sốt ruột vì mưa lớn chị Sảnh sẽ không đi chợ và lên đây kịp.

Thấy Tiến đứng dưới bếp nhìn ra ngoài trời mưa, tôi chạy xuống và bảo Tiến rót một ly nước chín vào Điện Mẫu thắp nhang cầu xin Mẹ ban nhiệm mầu vào nước uống cho hết bệnh. Tiến đã làm theo tất cả những điều tôi “ xúi giục.” Anh Tứ và anh Hưng cũng vào thắp nhang lạy Địa Mẫu và được Mẹ chỉ dạy nhiều điều trong bước đường tu tập (thông qua tôi làm phiên dịch, trừ những điều Mẹ cho họ tự cảm nhận).

Khoảng tám giờ mưa đã tạnh hẳn. Một con sáo đen bay đến trước mẹ Lành kêu lên ba tiếng. Chúng tôi hiểu đã đến giờ tạm biệt các vị Sơn Thần ở đây.

Mẹ ơi, thế là đã đến giờ Mẹ giục bước chúng con lên đường. Chúng con đã không kịp đặt dưới chân Mẹ bó hoa rừng màu tím, nhưng một ngày nào đó tất cả chúng con sẽ dâng lên Mẹ những bông sen đỏ rực màu máu, là những trái tim của chúng con khi thành tựu - những búp sen quay ngược lên phía trên trong lồng ngực của chúng con, chắc hẳn lúc đó Mẹ sẽ rất vui.

Trên đường xuống núi chúng tôi gặp cô chủ nhà đang hối hả lên núi cùng với con chó cưng của mình. Chúng tôi cảm ơn và chào tạm biệt cô. Sau cơn mưa lẽ ra phải cảm thấy mát mẻ nhưng chúng tôi ai cũng thấy nóng phừng phừng trong người, có lẽ cơ thể đã xả bớt năng lượng tích trữ.

Xe phải dừng lại bên kia dòng kênh. Chúng tôi phải qua một cây cầu sắt nhỏ. Nói đến đền (đình) thường người ta liên tưởng đình thờ thần, nhưng không, chúng tôi được chứng kiến đây là ngôi đình thờ Tam Bảo (thờ Phật, một cách nói nôm na), đình Vĩnh Hanh thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang .

Chúng tôi dâng nhang lên bàn thờ Bác Hồ, bàn thờ Trăm Quan, bàn thờ Nguyễn Trung Trực và cuối cùng Ngôi Tam Bảo. Người quản lý ở đây chỉ cho chúng tôi tấm trần điều (vải điều) không hình chữ lọng trong kính ở tít trên cao và bảo mọi người nhìn vào đấy. Phần đông, theo trí tưởng tượng của mình đều thấy Mẹ Quan Âm, còn tôi thì thấy hình Đức Di Lặc. Riêng Tiến thì thấy hình Thái Thượng Lão Quân với bộ râu dài.

Rõ ràng là trong tâm khảm ta nếu khắc ghi hình ảnh của Đấng Thiêng Liêng nào thì “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Tôi nghe tiếng Thày chỉ dạy cho tôi: “Tất cả đều là Thày đó con”. Vâng thưa Thày, con đã hiểu “một là tất cả, tất cả là một”, nhưng hôm nay muốn viết ra cho các bạn cùng hiểu TẤT CẢ đều là CHA biến hóa ra để hóa độ chúng sinh.

Tôi lại nghe tiếng Diêu Trì Kim Mẫu nói :“Các con lại đây, quì dưới bàn thờ Tam Bảo.” Tôi hướng dẫn các thành viên trong đoàn làm theo, quì xuống chân Thày Mẹ, ngửa tay lên trời, trong khoảng 5 phút. Tôi nghe năng lượng trong người chạy rần rần. Mẹ bảo Mẹ đã ban năng lượng, và xả trược cho chúng tôi. Chúng con xin cảm ơn Mẹ.

Tôi lầm bầm điện thờ Mẫu người ta thờ Trăm Quan, đền Vĩnh Hanh thờ Bác Hồ, thờ Trăm Họ, không biết có mối liên quan gì đây? Bác vẫn bảo: “ Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải gắng sức giữ nước”. Bác đã hy sinh đã cả cuộc đời cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Các thế hệ ngày nay đang tiếp bước trên con đường mà Bác đã vạch ra vì Bác là Vị Thánh Anh Minh, là Vua Hùng tái thế. Bác vẫn là niềm tin, niềm tự hào của dân tộc:

Tháp Mười đẹp nhất hoa sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.

Tôi chợt nhận ra rằng: Đảng và Nhà nước đã chính thức lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ Hùng Vương, đó là một biểu hiện của sự “uống nước nhớ nguồn” của cháu con. Đền thờ trăm họ mọc lên như nấm khắp nơi khiến cho con người ta cảm thấy được gần gũi với tổ tiên ông bà mình hơn. Phải rồi, bài học Thày cho nhớ về Cội nguồn là nhớ về Bác Hồ, các Vua Hùng với Trăm Quan, Trăm Họ; Mẹ Âu Cơ - Cha Lạc Long Quân với "một trăm bọc, một trăm trứng", người xuống biển, người lên núi tuy xa cách về địa lý nhưng tất cả đều là anh em một nhà như thế đó!
Bố Thuần, chị Nga, Tiến và tôi chụp một bức ảnh lưu niệm dưới chân Bác và tạm xa ngôi đình, đi tìm chỗ ăn cơm trưa. Tất cả kéo nhau về thị xã Long Xuyên, tiệm cơm Phát Tài. Anh Hưng hứa chiêu đãi đoàn, nên họ gọi nào là mực xào, nào là… tôi không biết những món gì nữa, chỉ biết họ đã ăn hết chắc vì đói ngấu.

Khoảng một giờ trưa chúng tôi lên đường tới điểm cuối cùng: Dinh Đá Nổi, Rong Chìm ở ấp Phú Tây, xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Hai chiếc xe lăn bánh dọc theo dòng kênh Xua Đũa… Chúng tôi qua hai cây cầu và đến đoạn đường đầy sình lầy xe không qua nổi, buộc phải đỗ xe lại và tìm cách tiếp tục cuộc hành trình. Tôi bảo cháu Lãm đi xe ôm (ở đây họ gọi là xe đò) lên trên đó kêu mười chiếc xe ôm lên đây đón đoàn. Chờ mãi… chẳng có một chiếc xe ôm nào. “Vậy thì con đi tìm chiếc ghe bảo họ chở cả đoàn đi” vì trong khi ngồi trong xe tôi thấy những chiếc ghe đi lại trên dòng kênh nên thơ quá, và cứ thầm ước có thuyền rồng đưa chân đoàn đi. Cháu Lãm cũng không biết đi bằng ghe sẽ như thế nào. Một lát, như có sự sắp đặt sẵn của Bề Trên, chủ nhân một chiếc thuyền neo bên kia dòng kênh đã đồng ý chở chúng tôi đi mà không hề đòi hỏi, họ bảo ghe chúng tôi chỉ chở mía, nay giúp các bác, chúng tôi sẽ cho chở các bác đến đó và chở về.

Trừ Hiểu và hai người lái xe ở lại, chúng tôi xuống cỗ thuyền rồng rộng thênh thang, lướt sóng trên dòng kênh. Con thuyền đưa chân chúng tôi đến tận nơi (khác với những lần trước nếu Lãm dẫn đòan đi phải đi xe ôm, rồi đi bộ khoảng 100-200 mét mới tới nơi. Cũng là thêm một kinh nghiệm cho cậu ấy tìm con đường thuận lợi nhất cho khách hành hương).

Người trông coi ngôi dinh này giới thiệu với chúng tôi sự tích văn hóa của một thời được gọi là của dân tộc Óc Eo - tâm điểm của Vương quốc Phù Nam, dưới lòng đất là cả một sự huyền bí bắt nguồn từ Cam Ranh tới Hà Tiên (nhà nước đã hai lần khai quật di tích này vào năm 1982-1983 và 1993 và tính đến tháng 2/2005 đã phát hiện hơn 400 cổ vật, hàng vạn di vật ở sâu dưới lòng đất), ghi nhận dấu vết của đạo Bà La Môn còn để lại, những điều không thể giải thích được tại sao những hòn đá nặng như thế lại nổi lên trên mặt nước vào mùa nước nổi, mà rong dưới nước lại chìm, về sự tích chiếc ghế của vua trạm trổ rồng, mà theo họ đã có hai người do vô ý ngồi lên sau đó bị đau bệnh mà chết, về cặp rồng bằng gỗ chạm trổ rất tinh xảo được tìm thấy dưới đất khi khai quật vùng này. Anh Trình nói với chúng tôi, hiện nay theo sự hướng dẫn của Đấng Vô Hình người ta đang phục hồi bốn con rồng và bốn con qui thời kỳ An Dương Vương…Tôi cảm nhận những báu vật đó là di tích do Tổ Hùng Vương để lại.

Theo kết luận của tập san “Cổ vật tinh hoa” trong bài viết “Tiền cổ và sự liên quan giữa văn hóa Óc Eo với vùng Địa Trung Hải” thì nền văn minh Óc Eo còn bao gồm cả 12 tỉnh là An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ, Trà Vinh, Tiền Giang, Long An, Đồng Nai, Tây Ninh, Sài Gòn-Gia Định. Văn hóa Óc Eo đã từng tồn tại trong nhiều thế kỷ, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ VII, VIII sau công nguyên, được nhìn nhận là có một nền thương nghiệp phát triển rực rỡ và có mối giao lưu rộng rãi với thế giới bên ngoài. Cùng với khối lượng lớn sản phẩm ngoại nhập khác, những đồng tiền kim lọai và những hiện vật La Mã thuộc văn hóa Óc Eo phát hiện được ở đồng bằng sông Cửu Long, và ngược lại những sản phẩm giống với Óc Eo cũng được tìm thấy ở nhiều nơi xa đến tận Ba Tư và thế giới Địa Trung Hải là những bằng chứng vật chất cụ thể cho cách nhìn nhận đó.

Khi các bạn đọc những dòng này, nếu có hảo tâm có thể đóng góp cho nhà chùa xây dựng lại một địa danh mang tính chất lịch sử vừa có ý nghĩa về mặt vô vi.

Chúng tôi làm lễ đối với các Đấng Thiêng Liêng và hỏi Thày: “Thưa Thày Mẹ, Thày Mẹ chuyển chúng con đến nơi này, Thày Mẹ có cho chúng con biết thêm gì về nơi này?” Mẹ bảo tôi: “Rừng thiêng, nước độc.” Tôi tự luận chắc ở đây nguồn nước sẽ quí giá và có thể uống được. Thổ dân ở đây cho tôi biết ở đây có nước giếng, vậy là chắc giống giếng nước ở khu vườn kỳ lạ Long An, tôi chợt nghĩ và bước ra ngoài sau đề nghị xin họ một ít nước. Thày hướng dẫn tôi niệm thần chú vào lu nước, sau đó mỗi người uống một ít (chỉ trừ Tiến trong suốt cuộc hành trình chỉ ăn cơm không và không uống nước vì sợ đường tiêu hóa có vấn đề). Anh Tứ đã xin về một chai nước và sau này khi về thành phố Tiến đã uống nó không cần đun sôi.

Sau đó Mẹ hướng dẫn tôi ra một cái hồ (ao) sen hồng và nói với tôi rằng dưới đây là kho báu. Chắc là Mẹ muốn chỉ dạy cho tôi về nghĩa bóng của kho báu dưới hồ sen. Tôi sực nhớ ra năm câu thơ mà Thày đã ban tặng cho tôi vào đêm Noel, mừng Chúa Giáng Sinh vào ngày rằm tháng 12 năm ngoái:

“Sinh giáng ao vàng mới đáng TA.
Ao vàng một lối có ai về mau kẻo trễ đò,
Ao vàng vẫn nở một màu đa,
Ao vàng chen chúc người Minh Mẫn,
Gom thần ao mới hóa SEN VÀNG”

Tôi bảo cháu Lãm hái cho tôi một bông sen để lát nữa tôi dâng lên Ngôi Tam Bảo. Hai cô cháu đi tới mô đá nơi người ta xếp thành đống (một cách nghệ thuật) những tảng đá nổi. Mẹ bảo tôi xin lấy một cục và đã chọn cho tôi. Tôi để cục đá lên bàn khách và tiến tới điện Phật.

Con đã thầm ước dâng đóa sen trắng lên Đức Phật Thầy Tây An, giờ đây con kính cẩn dâng bông sen hồng mà cháu Lãm đã trình bày thật đẹp và quán tưởng chúng bất tận như nước trong nguồn, nhiều hơn núi Tu Di lên Đức Phật. Đây là tấm lòng của chúng con xin Trời Phật chứng giám.

Tôi ngỏ ý xin cục đá với anh Văn Công Trình - quản từ, anh Trình bảo: “Để tôi hỏi Thổ Địa đã.” Phút sau anh bảo, “Mẹ đã cho, chị cứ lấy tất cả đều phụng sự cho nhân loại, từ trước tới nay tôi chưa cho ai đá này đâu, mà chị có biết không cục đá chị cầm trong tay là rong hóa đá đó.”

Cục đá tôi đang cầm trong tay chỉ có thể là “xác con chim hoá đá” làm “rong chìm”, “chim đá nổi” chỉ có thể là con két (bạn còn nhớ chứ “chim đá đá nổi”?), và… chim bay lên hoá mào từ “rong biển” xanh tươi. Nếu bạn là người có đầu óc hay suy luận, bạn cũng có thể dùng thuật lái chữ để “mơ” “rong chìm” là Chim Rồng (Phượng Hoàng) cao quí ?

Mẹ Lành, tôi và các thành viên khác của đoàn cúng dường một ít tiền ghi vào sổ hoặc bỏ vào thùng công đức (vì nơi đây họ đang xây dựng rất cần những tấm lòng hảo tâm của chúng ta). Đoàn chúng tôi chụp ảnh lưu niệm trước mô “núi” “đá nổi”.

Thày Mẹ đã mở đầu cho chúng tôi thấy hồ sen trắng ở điểm dừng đầu tiên và đã kết thúc chuyến đi đầy thú vị của chúng tôi tại một nơi có hồ sen hồng – kho báu.

Trong lúc tôi đang hoàn tất bài viết này, Thày hỏi tôi liên hệ xem Thày muốn dạy gì cho chúng ta về sen trắng, sen hồng và sen vàng.

Thưa Thày! Con nghĩ sen trắng, sen hồng đều là sen, là sự tượng trưng cho tâm hồn cao đẹp, hay nói một cách khác tâm thanh tịnh của con người mà chúng con, tâm phân biệt còn thấy chúng qua màu sắc. Chúng con “vẫn nở một màu da”: Vâng, nhiều màu da, nhiều quốc gia lãnh thổ, nhiều sắc tộc, nhiều căn cơ nhưng những dòng máu đỏ ấy đã được Thày cho “sinh giáng” trong “ao vàng.” Chủ nhân của những bông sen đã và đang được Thày chỉ cho một con đường về với Thày - Tây Phương Cực Lạc, với Hội Long Hoa “ao vàng một lối có ai về mau kẻo trễ đò”. Chỉ có tu tập trong minh tâm kiến tánh chúng con mới “thấy” được “SEN VÀNG.”

Dọc đường về, Tiến cho chúng tôi hay thêm: ngay đêm ở Điện Tàu Cau khi ngồi thiền, trong mắt thấy rất nhiều pháo hoa (pháo bông), một dấu hiệu của sự chúc mừng…, tôi nghĩ thế. Sức khỏe của Tiến đã tốt lên nhiều: mười phần bớt sáu bảy.

Xe chúng tôi đặt bánh vào địa phận thành phố Hồ Chí Minh lúc mười giờ đêm ngày 3/5/2008.

Trong chuyến đi này chắc hẳn mỗi người đều có cảm nhận của riêng mình, người gặt hái được nhiều, người được ít, nhưng rồi tất cả cũng sẽ phải cố gắng phấn đấu để tu sửa hoàn thiện chính mình. Người có hồng phúc được Thày cho thấy Linh Ảnh sẽ rất vui mừng, củng cố thêm niềm tin vào Đạo, người chưa có nhân duyên cũng đừng vội buồn nản vì Đức Phật dạy:

“Tu mà tự tánh bất minh,
Tầm sư, học đạo, khó thành ước mong.”

Tất cả còn đang ở phía trước. Chúc tất cả các bạn thành công!

Thưa THÀY! Qua chuyến đi này, con thấm nhuần bài học THÀY cho con là BÀI HỌC LỊCH SỬ, bài học về tình yêu thương đoàn kết tương ái tương thân, biết sẻ chia biết hy sinh quyền lợi của mình vì lợi ích của người khác, bài học về tính vị tha, bài học đi người hành hương, bài học về Long Hoa Hội và trên hết, xuyên suốt cả chuyến đi này là bài học về NIỀM TIN vào ĐẤNG CAO CẢ đang dìu dắt đàn con dại trên bước đường trở về với Ngài. Chúng con xin quì dưới chân CHA MẸ, cảm ơn THÀY MẸ đã gia hộ cho chúng con, mở cho chúng con con mắt tâm để chúng con có tâm minh, trí sáng, để chúng con tu tập tiến bộ và cùng cộng đồng tiến hóa, thăng hoa mãi mãi, để ánh sáng minh triết của ĐẤNG VÔ CỰC dẫn dắt chúng con mau trở về với CỘI NGUỒN.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 10 tháng 5 năm 2008
(Tức mùng 6 tháng 4 năm Mậu Tý)