Monday, June 30, 2008

# Ươm Mơ Sen Vàng (Phần 2)

PHẦN II: SUM HỌP

Điểm “Mơ”

Người trình bày: Thái Minh Mẫn

“ Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.”

Câu ca dao ấy khiến tôi mường tượng đến cảnh hạnh phúc gia đình của cặp vợ chồng miền thôn quê sớm tối quần quật “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” sum họp vui vẻ quanh mâm cơm chiều. Gia đình hạnh phúc là nền tảng của một xã hội tốt đẹp, văn minh, công bằng. Để có được hạnh phúc ấy mỗi người phải sống vì người bạn đời, họ phải tìm thấy nửa của người kia trong mình, tức là “mơ” tìm thấy sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa âm và dương, giữa hữu hình và vô hình.

Tôi muốn quay lại cuốn “Vô Tự Chân Kinh” bằng liên hệ đoạn sự hình thành thân khẩu ý của bào thai với sự hình thành các kinh mạch, khí và giọt trong “Kinh Phật Thuyết Bào Thai”.

Để tôi xin Thày (Thái Thượng Lão Quân) cho tôi một viên dược linh biến tôi hành chú Dế Mèn kể tiếp chuyến “phiêu lưu” của tôi trong bụng mẹ cho các bạn nhé.

Sự ẩm thấp, ngột ngạt, tối tăm trong này khiến tôi (Dế Mèn) muốn mạo hiểm tìm nơi sáng sủa, tìm đường thoát thân. Tôi cố vùng vẫy nhưng càng vùng vẫy tôi càng cảm thấy ngợp vì hình như cái phao (nhau thai*) (dấu*: chú thích của tác giả) – bình cung cấp dưỡng khí của tôi sắp bị lủng. Tiếng sấm rền mỗi lúc một to quanh đây (tiếng rên của người mẹ*) làm tôi hoảng sợ tột cùng. Tôi nhắm mắt nhắm mũi liều mình “đùa mơ” (co cẳng đá phốc một cái) vào bức tường cứng như đá ấy. Thật không ngờ một tấm thân yếu ớt như tôi lại có sức mạnh đến như thế. Một tiếng nổ vang trời (người mẹ vỡ ối*) thủng màng nhĩ tôi. Tôi cảm thấy biển nước mà tôi “đùa mơ” (ngụp lặn) trong đó từ từ cạn đi và mình đang được dòng nước (nước ối*) cuốn đi qua một đường hầm tối om, ẩm ướt đầy rêu phong (âm đạo người mẹ*). Đây rồi! Màn “mở” (tấm phông chuẩn bị được kéo ra cho em bé chuẩn bị chào đời*). Một màn (màu) trắng xuất hiện làm mắt tôi chói lòa. Tôi cố mở mắt ra nhìn xung quanh không thấy cái biển nước mà tôi quen “đùa mơ” ngày trước nữa. Tôi thấy ngộp thở quá. Hai chân tôi lúc trước khỏe thế mà giờ đây không giãy dụa được (ai đó đã túm hai chân tôi lên dốc ngược*), nước trong miệng tôi văng ra tung tóe vì hình như có cái gì đó lọt vào miệng tôi (ai đó đã móc đờm dãi trong miệng tôi*). Tôi cảm thấy ân hận giá như mình cứ hồn nhiên vui đùa trong cái biển nước ấy thì bây giờ mình không bị trói buộc và chết ngạt như thế này. Tôi nhắm mắt lại tính kế thoát hiểm. Tôi nhớ ra là mình phải cầu cứu mẹ thôi. Tôi gọi mẹ thật to (tôi khóc chào đời đấy*). Tôi lắng nghe âm thanh gì đó lại nổi lên (tiếng ai đó kêu lên: “bé gái”*), nhưng lần này nó cũng chẳng làm tôi êm tai được chút nào. Tôi thấy khó chịu vì đầu óc quay cuồng, và thầm trách mẹ sao không bơm bong bóng xà phòng nhiều vào cho tôi vui đùa. Tôi lơ mơ thấy mình nằm trên một tấm ván mềm (ai đó đang bế tôi*) lướt đến (đặt tôi*) một khoảng trắng xóa (chiếc bàn trải ra trắng tinh*). Âm thanh chát chúa lại vang lên (tiếng dụng cụ loảng xoảng*), rồi lục bục (ai đó cầm sợi dây rốn tôi*) làm máu huyết trong tôi nhộn nhạo. Tiếng sét vang lên (ai đó xoẹt đứt sợi dây rốn của tôi*). Tim tôi muốn vỡ ra từng mảnh và tôi ngất đi. Tỉnh lại tôi thấy mình nằm bên cạnh mẹ. Tôi đã chào đời như thế đó.

Chính khoái cảm của cha mẹ mà Hương Thực Ấm (Dế Mèn) đã lầm tưởng là của mình đã gây tai hại cho nó. Nó đã không thể quên được cái tôi cố hữu của mình, cố chấp rằng mình đang thấy và có đối tượng nhìn thấy. Cảnh tượng long phụng hợp cẩn của cha mẹ nó khiến nó tưởng nó là con phụng trong màn hợp cẩn, và thực thể cảm xúc của long phụng là của nó. Bạn xem lại Đức Phật chỉ dạy trong đoạn Kinh Phật Thuyết bào Thai: “Khí gây ra các hiện hành của tâm sở trong trạng thái trung ấm tan rã, và lúc đó, màn tâm thức xuất hiện, đỏ tăng và đen cận mãn hé rạng theo thứ tự. Các thứ này và ánh tịnh quang của sự chết của thần thức hiện ra rất nhanh chóng”. Sau giây phút ngất ngây với ảo cảnh, dòng tâm thức của nó xuất hiện. Cánh cửa ngôi nhà đầu thai mở ra cho nó với màu đỏ (màu huyết mẹ - noãn) vì nó đang cho nó là con phụng. Tinh cha phóng vào noãn người mẹ như con dao cắt vào da thịt nó khiến nó cảm thấy đau choáng váng mày mặt là lúc “đen cận mãn hé rạng”.

Đức Phật chỉ dạy: “Các dấu hiệu ảo tượng đến tịnh quang xuất hiện, và từ trung tâm của chất tinh và huyết hòa trộn – tình trạng tương tợ ánh tịnh quang kéo dài, tạo thành sợi dây liên hệ với đời sống mới. Sự tái sinh và sự tạo thành của tâm cận mãn của tiến trình ngược xảy ra đồng thời.”

Từ ảo cảnh thấy long phụng hợp cẩn, đến việc tưởng mình là con phụng khiến Hương Thực Ấm trở thành người “thừa ngơ ngẩn mơ” (lạc hồn vì sung sướng của mẹ cha nó) khiến nó tự mở cánh cửa đầu thai cho nó như đã phân tích ở phần I. Lẽ ra Dế Mèn nên “mượn” ảo cảnh “mây mưa” (phút giây thiêng liêng) đó làm sân khấu để làm khán giả trong “mơ ngó” thì trong giây phút khoái chí tình thâm tán thưởng vở kịch “Đùa Mơ” (Long Hổ Hội) đến mức nhảy lên sân khấu “mưa mây” (hòa nhập) với diễn viên đóng vai phản diện mà nó “ghét” (do hờn ghen). Hậu quả “đùa mơ” (của ly rượu giao bôi) là ánh tịnh quang của sự chết của thần thức hiện ra, và cũng là lúc nó tái sinh.

Chắc bạn đọc sẽ đặt ngay câu hỏi tại sao Minh Mẫn lại suy luận rằng Dế Mèn đóng vai phản diện mà nó ghét (con phụng) trong màn kịch “Long Hổ Hội.” Để Minh Mẫn lý giải việc này cho bạn xem có logic, hợp lý hợp tình không nhé.

Khi thấy cha mẹ mây mưa, Dế Mèn (thân gái) do “bản năng thích nô đùa” nên động cảnh sinh tình, “đam mơ” (ước muốn) được gần gũi người mình yêu thích. Nó không thể làm gì được trừ phi phải dùng “thần thông” của mình chui vào trong người mẹ để chiếm lĩnh lấy cảm giác sung sướng ấy. Nó đã muốn độc quyền sở hữu người nó ham muốn, muốn tách lìa “đối thủ” của nó, nhưng sự thật “ghét của nào Trời trao của ấy”: nó đã được trao “đùa mão” (đóng vai) phản diện mà nó “ghét”. Như ở phần I có đề cập đến tâm tưởng như con ngáo ộp làm phình quả bóng mơ của người “đam mơ” (ước muốn) như thế nào. Rõ ràng là Dế Mèn nên “thác mơ” (mơ Cam Lồ Thủy, mơ Niết Bàn nơi có hạnh phúc an lạc vô biên) để được “mơ Mơ” (tái sinh về Cội Nguồn nơi từ đó nó ra đi), không nên “tung mơ” (tưởng “thà một phút huy hoàng rồi tắt hẳn”) để rồi phải “le lói ngàn năm.”

Âm dương giao hòa giữa tinh cha huyết mẹ tạo ra "mở Mơ" (bich bang). "Chùm mùng mơ" (giây phút sung sướng giả thọ cảm) khiến cho sau phút giây huy hoàng ấy của nó là "mùng úp màng mơ" ("màn đen cận mãn hé rạng" do quả trứng tròn - huyết mẹ ấy đã "ôm nó vào lòng" (thụ thai của người mẹ) khiến nó bị “mắc kẹt” không thể thấy ánh sáng trong khối hỗn hợp tinh huyết ấy.

Thày chỉ dạy cho Minh Mẫn biết: "Khi nhập thai, người ít công đức thiện nghiệp sẽ nghe tiếng ồn ào ầm ĩ và có cảm giác giống như đi vào trong đầm lầy, rừng rậm đen tối; trong khi người có nhiều thiện nghiệp nghe các âm thanh nhẹ nhàng an ổn dễ chịu và có cảm giác đi vào trong căn nhà đẹp đẽ."

Điều này cũng dễ hiểu thôi: những ai lúc còn sống ít tu tập tích lũy công đức, tâm họ luôn bất an, gặp nghịch cảnh là tâm thần tán loạn, dễ bị sa sút tinh thần: họ (và con tinh trùng lúc này không phân biệt) sẽ cảm thấy như bước đi trong đêm tối (tinh trùng bị trứng bao lại) trên đất sụt (trứng bị phá vỡ). Người minh mẫn có tu tập thiền định chắc chắn tâm thần vững chãi, họ hiểu họ bước vào căn nhà đẹp để tiếp tục tiến hóa thăng hoa. Những Bậc Thiện Tri Thức có tâm nguyện hóa độ chúng sinh như Đại Đức Rampa, Đức Dalai Lama thứ 14 ở Tây Tạng hiện đang còn sống, khi tái sinh có lẽ họ sẽ có cảm giác nhẹ nhàng an ổn dễ chịu ấy? Thày cho Minh Mẫn biết Dế Mèn đã có cảm giác đi vào đầm lấy trong màn đêm đen tối khi nhập thai. Các bạn có đồng ý với Minh Mẫn là phải tu tập để tâm được an ổn để nếu “không may” lạc bước nhớ lại lúc này còn kịp quay đầu trở lại?

Đọc tiếp cùng bạn lời Kinh:" Từ đó, các thời điểm sau và tiếp theo của tâm cận mãn; theo sau là tâm đỏ tăng, và sau đó là màn trắng xuất hiện, tiếp theo là 80 tâm sở hiện hành cũng như là xuất hiện của các khí căn cứ của nó."

Dế Mèn hiểu tiếp sau (cận) cái thọ cảm sung sướng giả (tâm mãn) của mình ("tâm cận mãn") trái tim nhỏ bé của mình bắt đầu đập nhè nhẹ (thế là huyết mẹ tạo "tâm đỏ" của Dế Mèn tăng, không biết tới tháng thứ mấy thì cha mới áp tai vào bụng mẹ nghe được Dế Mèn nhỉ? Không những thế, sau đó tinh cha lan tỏa khắp thân thể Dế Mèn làm thành (màn trắng) những kinh mạch chằng chịt của Dế Mèn đó. Tiếp theo Dế Mèn “mùng màn Mơ” (80 tâm sở hiện hành) xuất hiện như thế nào xin mời độc giả xem phần III “Ươm mơ Sen Vàng” sẽ rõ.

Dế Mèn cũng hiểu tại sao Đức Phật "mừng mưa mão" (nuôi dưỡng "Mơ" cho Dế Mèn): "Từ khí căn cứ của tâm màn trắng xuất hiện một loại khí khác phát sinh mang khả năng đặc biệt là giữ vai trò làm căn cứ của thần thức. Từ nó, hỏa đại mang khả năng đặc biệt làm căn cứ của thần thức phát sinh; sau đó thủy đại căn cứ và địa đại căn cứ phát sinh."

Dế Mèn mang "cốt nhục" của cha mẹ. Màn trắng chính là cái cốt tủy, cái gen di truyền (cha truyền con nối ấy) mà khi Dế Mèn chào đời những người thân sẽ nhận xét Dế Mèn giống cha như đúc hoặc phỉ phui cái miệng bà hàng xóm thích bông đùa bảo rằng nó (Dế Mèn) không giống ông công an khu vực là tốt rồi. Sự màu nhiệm của Tạo Hóa là ở chỗ từ cái màn trắng vô hình là "tâm điểm"(xuất hiện một loại khí khác mang khả năng đặc biệt giữ vai trò làm căn cứ của thần thức) cho "Màu nhiệm của màu nhiệm" (từ nó, hỏa đại (linh hồn Dế Mèn đó) mang khả năng đặc biệt làm căn cứ của thần thức phát sinh) hình thành cái hữu hình "nhục thể" hay còn gọi là tứ đại của Dế Mèn. Tới chỗ này bạn có đồng ý với Minh Mẫn rằng Mẫu đã "mưa Màu Mơ" (chỉ dạy cho Minh Mẫn) cái cốt ấy chính là linh hồn và cái nhục ấy chính là thể xác của Dế Mèn hay không?

Như thế căn nhà (thể xác) của Dế Mèn là “mơ tâm mơ” (nơi sum họp của gen di truyền của tinh cha và nhục thể là máu huyết của mẹ, là nơi thần thức (linh hồn) của Dế Mèn hình thành và phát triển). Cha mẹ có hạnh phúc sum vầy (như cô bác thường chọc ghẹo Dế Mèn bảo “giống tốt”) thì Dế Mèn mới đẹp về thể xác, minh mẫn về tâm hồn như mẹ đã cầu nguyện Ơn Trên ban nhiệm màu cho Dế Mèn có một tấm thân khỏe mạnh với các thiện căn.

Người ta thường trêu chọc những người bị bệnh nặng là “chán cơm, thèm đất, thích nghe kèn” (sắp đi vào cõi trung ấm) mà không hề hiểu người đó là “mưa màu mơ” (người “mơ” chối từ một giấc mơ cơm áo gạo tiền) cho bản thân, “rung mão” (chuẩn bị rũ áo ra đi). Đã đến lúc căn nhà rệu rã, mục nát không thể “sửa sang” (cơm cháo) gì được nữa, đã đến lúc người sắp ra đi mơ một giấc mơ gặp lại người bạn đời trong kiếp này của mình ở thế giới bên kia, “dâng mão” để gặp Cha Mẹ ở bầu trời Thiên Thanh xanh thẳm.

Thày chỉ dạy cho Minh Mẫn biết: “Có ba cánh cửa cho thần thức nhập vào dạ con: miệng người nam, đỉnh đầu người nam và cánh cửa đi vào dạ con người nữ.”

Lời chỉ dạy này của Thày khó quá Minh Mẫn đã phải mất cả giờ đồng hồ mới lờ mờ hiểu ra xin trao đổi với bạn đọc nhé. Tại sao trong dân gian người ta hay dùng câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” để ám chỉ cái tố chất tốt đẹp mà con cháu được kế thừa từ tổ tiên ông bà?

Thần thức Dế Mèn lúc đó vì có thần thông nên trước khi “mơ họ Mão” (nhập gia họ Thái) đã ngắm nghía, lựa chọn hết cả rồi. Chỉ cần một “thoáng mơ” là Dế Mèn đã sao chụp được bộ gen di truyền của “ông bô, bà bô” trong tương lai. Ai đó bảo Dế Mèn là con nuôi thì nhất định không xong với Dế Mèn đâu. Dế Mèn sẽ đưa ngay bảng phân tích ADN của bác sĩ làm cho Dế Mèn ra để phản biện ngay: “Ông hay bà nhìn này tôi là bản sao bộ óc thông minh, tài ăn nói của cha tôi, phẩm chất dịu dàng, thùy mị, siêng năng lao động của mẹ tôi, tôi kế thừa nhưng tôi cũng có cái riêng của tôi (Dế Mèn).”

Bạn thấy Dế Mèn láu lỉnh quá phải không? Cái riêng của nó (Dế Mèn) mang theo là nghiệp lực của nó, còn cái nó kế thừa của cha mẹ tổ tiên ông bà là cộng nghiệp của nó. Giờ này chắc bạn hiểu thêm một điều tại sao người ta nói “một người tu Đắc Đạo cứu cả dòng họ” giống “mơ” (về ý nghĩa tốt đẹp) như “một người làm quan cả họ được nhờ,” và cái lý tại sao cần thiết hồi hướng những việc làm thánh thiện của mình cho cửu huyền thất tổ.

Như phần I đã đề cập Hương Thực Ấm là cõi ăn bằng hương vị. Chính vì chỉ thực bằng hương nên Ma (người trong cõi trung ấm) rất tham ăn. Để Minh Mẫn cùng bạn ôn lại một đoạn “Phật nói Kinh Vu Lan Bồn” nhé:

“Kiền Liên mới đặng lục thông,

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

Làm con hiếu hạnh vi tiên,

Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ,

Không uống ăn tiều tụy hình hài,

Mục Liên thấy vậy bi ai,

Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.

Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu,

Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu,

Thấy cơm mẹ rất lo âu,

Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn,

Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,

Sợ chúng ma cướp giựt của bà.

Cơm đưa chưa đến miệng đà,

Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.”

Minh Mẫn nghĩ là bạn hiểu Đức Phật muốn chỉ dạy gì cho chúng ta qua lời Kinh nói trên.

Có khi nào bạn để ý trong đám tang theo truyền thống Phật giáo thân nhân người chết được cúng cơm trong một cái chén với một đôi đũa, còn hai bát cơm bên cạnh để trên bàn thờ vong mỗi bát chỉ có một chiếc đũa? Người ta giải thích rằng người mới chết ăn bằng đôi đũa mà không lại ma ăn bằng một chiếc đũa, nếu đưa cả đôi nó sẽ ăn hết phần của vong mới. Có phải chính vì ham ăn nên lúc nào ma (hương thực ấm) cũng ao ước có được cái khẩu (miệng) như người ở trần gian để được ăn tất cả không chỉ hương vị?

Đức Phật chỉ dạy tiếp trong “Kinh Phật Thuyết Bào Thai”: “Rồi khi thân trung ấm bắt đầu ôm lấy người nó muốn, qua nghiệp lực của quá khứ, nó chẳng thấy gì của thân thể mà chỉ thấy bộ phận sinh dục của người đó, vì vậy mà nổi cơn sân hận. Chính lòng ham muốn và tâm sân hận này tác động làm nguyên nhân cái chết của thân trung ấm, và nó nhập vào thai trong dạ con người mẹ.

Trong khi thấy cảnh Long Phụng hợp cẩn, vì bản năng và ham muốn mây mưa Dế Mèn đã tưởng nó có tấm thân vật lý nên “sà vào” ôm ấp người nó muốn nhưng do nghiệp lực nó không thấy gì của thân thể, nó đã nổi sân hận vì không có tấm thân, vì đã chẳng có gì để hợp cẩn, để ôm người nó muốn cả. Hai cánh cửa thân và ý đã giúp nó “tức muốn chết” và sau khi tỉnh dậy đã nằm trong dạ con của người mẹ.

Như vậy ba cánh cửa nhập thai của Dế Mèn chính là tam nghiệp Thân, Khẩu, Ý của “Mơ” (chính Dế Mèn).

Thày chỉ dạy cho Minh Mẫn về sự tạo thành các kinh mạch, khí và giọt như sau:

Luân xa tại tim (con người nói chung[1]) bao gồm kinh mạch trung ương, phải và trái, bao quanh nó là hoa sen 8 cánh, hay 8 căm (nan hoa) – 4 cánh tại 4 hướng chính và 4 cánh tại 4 hướng trung gian.

Cơ thể con người có 5 đại kinh mạch – hoa sen là:

1. Luân xa hoa sen Đại hỷ trên đỉnh đầu có 32 cánh hoa sen.

2. Luân xa hoa sen Thọ hưởng tại yết hầu có 16 cánh.

3. Luân xa hoa sen Pháp bổn tại tim có 8 cánh.

4. Luân xa hoa sen Nội hỏa tại đan điền có 64 cánh.

5. Luân xa hoa sen Trì lạc tại chỗ kín có 32 cánh.

Ba luân xa hoa sen khác thường được nhắc tới là:

1. Luân xa hoa sen Khí điển tại chân mày, có 16 cánh.

2. Luân xa hoa sen Hỏa điển tại cổ và tim , có 3 cánh.

3. Luân xa hoa sen Châu báu ( đầu dương vật), có 16 cánh.

Khí trợ sinh trụ chính yếu tại trung tâm của luân xa hoa sen tim; nó có chức năng tạo ra sự chuyển động ra vào của các khí căn cứ cho các cảm quan, và chức năng bảo tồn đời sống; dạng thô hơn của khí này tạo ra sự chuyển động của hơi thở qua lỗ mũi. Khí chuyển hạ xả rỗng trụ chính yếu tại trung tâm của luân xa hoa sen ở chỗ kín; nó có chức năng tạo ra việc đi đại tiện, tiểu tiện, kinh nguyệt v.v.. Hỏa khí trụ chính yếu tại trung tâm của luân xa hoa sen đan điền (là nơi trụ của nội hỏa); nó có chức năng tạo ra sự tiêu hóa, tách rời các phần tinh lọc và thô của thức ăn đã tiêu hóa và kích động nội hỏa. Khí chuyển thượng trụ chính yếu tạo trung tâm luân xa hoa sen yết hầu; nó có chức năng tạo ra vị giác nếm các thức ăn, nói chuyện v.v… Khí toàn thân trụ chính yếu tại các khớp xương; nó có chức năng gây ra chuyển động, nghỉ ngơi ngưng chuyển động v.v…

Trong tháng thứ sáu, khí (phụ) di chuyển qua cách cửa của hai con mắt – gọi là “chuyển động” – và đại địa được hình thành. Từ tháng thứ sáu đến tháng thứ mười, tứ đại – đất, nước, lửa, gió – và không đại sinh ra, có nghiã là khả năng các đại này đã phát triển đầy đủ.

Năm khí phụ trên là năm phần chính hay là năm thể chính của khí trợ sinh; nó dùng để phụ giúp nhận biết các đối tượng của 5 cảm quan của tâm thức. Có 10 khí được tạo thành trong dạ con, hơi thở (thô) ra vào từ mũi chưa bắt đầu mãi cho đến ngay sau khi sinh ra chào đời.

Có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu về “Luân Xa”, nhưng Minh Mẫn muốn thư giãn đùa chữ với bạn một chút. Luân là “mùng mở” (luân chuyển, luân phiên). Xa là xa xăm, quá khứ. Luân xa là sự luân chuyển (cái gì đó) từ quá khứ, là bánh xe luân hồi quay liên tục mà người ta có thể ẩn dụ nó qua các danh từ, hình ảnh khác như vô thường, xuân hạ thu đông, ngày đêm, vô minh – giác ngộ, Phật – Ma, là bạn, là tôi v.v..Luân xa là điểm “Mở”. Bánh xe luân hồi trong Vũ Trụ và Tiểu Vũ Trụ chuyển động với thời gian, có điều trong Ta (tiểu vũ trụ) nó bị chi phối bởi “lực” tác động của “tâm giả kiến tánh” (vô minh) của con người, cái mà trong Vũ trụ “không” có. Luân xa làm trung gian cho sự tiếp xúc của Tiểu Vũ Trụ với Vũ Trụ. Những cánh “Hoa mơ” (cánh sen) này có tươi tắn, nở rộ, sinh động với ánh hào quang đẹp đẽ mới giúp bạn được khỏe mạnh và minh mẫn. Nhiều người thường nói với tôi hễ ngồi thiền điển xuống bách hội, hoặc tới những nơi có nhiều thanh điển họ cũng tiếp nhận được năng lượng và cảm thấy khỏe khoắn. Tôi nhớ lại một dạo khi khu vườn kỳ lạ ở Tân Thông Hội, Đức Lập, Long An còn nhiều điều “kỳ lạ,” tôi đưa ba mẹ tôi xuống nghỉ ngơi cuối tuần, các cụ đều thừa nhận khỏe và ăn cơm nhiều hơn. Theo bạn thì phải làm thế nào để năng lượng của Vũ Trụ “thấm” vào ta không những chỉ qua luân xa 7 (bách hội) mà qua tất cả các luân xa của cơ thể? Có phải thường xuyên thực hành pháp luân thường chuyển, thiền định?

Ta bắt đầu đàm luận đôi chút về luân xa tại tim. Tại sao Thày lại nói rằng luân xa tại tim bao gồm kinh mạch trung ương, phải và trái, bao quanh nó là hoa sen 8 cánh? Như trên ta đã biết rằng khi thần thức nhập thai, “nhục” (tim) được hình thành đầu tiên. Trái tim là tâm điểm nơi sản sinh ra máu nuôi cơ thể, bám theo nó những kinh mạch (thành hình do “cốt”) chính là luân xa tim, là trung tâm của Tiểu Vũ Trụ, làm nhịp cầu nối (ăng ten) với Vũ Trụ ở khắp bốn phương tám hướng bằng “sen mơ.” Người minh mẫn dùng một cụm từ rất gợi cảm để chỉ luân xa này đó là luân xa tình thương, có lẽ vì nó là luân xa được hình thành từ trái tim biết yêu thương biết hy sinh vì mọi người, là “điểm mở” của Tiểu Vũ Trụ, là luân xa của “mùng màn mở” (đi trước – hình thành trước nhất khi thần thức nhập bào thai), của “mùng màn đóng – dâng mão” (về sau cùng khi hồn xác chia ly). Nếu bạn khai Mở được luân xa này linh hồn của bạn sẽ được giải phóng khỏi ngục tù giam giữ nó (sự hình thành của linh hồn tại luân xa này sẽ được đề cập dưới đây) để ung dung tự tại lên thăm Cha Mẹ vào bất cứ lúc nào nó muốn và học được nhiều điều hơn ở những cảnh giới khác ngay trong kiếp sống này. Bạn cũng có thể đặt cho luân xa này một cái tên khác ấn tượng là Luân xa Địa Tạng Bồ Tát. Vì sao? Vì tính chất của luân xa này giống hạnh nguyện của Đức Địa Tạng nguyện không thành Phật khi còn một chúng sanh bị rơi vào địa ngục. Ngài đã và đang độ cho tất cả các chúng sanh ra khỏi địa ngục và không hẹn ngày trở thành Phật. Biết tới khi nào địa ngục của Tạo Hóa trống rỗng? Có phải là Ngài đã đi trước và về sau không?

Bạn cũng có thể lý luận rằng luân xa tại tim có hoa sen tám cánh tượng trưng cho con đường tám nhánh giải thoát khỏi Khổ (Bát Chánh Đạo) gồm:

Chánh kiến: thấy biết chân chánh.

Chánh tư duy: suy nghĩ chân chánh, suy xét về ý nghĩa của Tứ Diệu Đế một cách đúng đắn.

Chánh ngữ: không nói dối, nói phù phiếm.

Chánh nghiệp: tránh phạm giới luật.

Chánh mệnh: tránh các nghề nghiệp mang lại giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn vũ khí, buôn thuốc phiện.

Chánh tinh tấn: phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.

Chánh niệm: tỉnh giác trên ba phương diện thân, khẩu, ý.

Chánh định: tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gian.

Mặt khác, tình yêu thương gắn kết con người ta xích lại gần nhau, do đó con người muốn “chiếm hữu” trái tim của nhau, muốn người khác phục tùng và làm theo ý muốn của mình, ngược lại nếu trái ý họ sẽ buồn rầu, sân hận khiến sợi dây oan nghiệt ngày càng siết chặt vào họ.

Đức Phật đã chỉ dạy chúng ta trong “Kinh Pháp Cú”: “Ái diệt, hết khổ đau,” nhưng không phải diệt tình thương nói chung vì đến “sỏi đá cũng cần có nhau” chứ không nói chi đến con người, và vì tình thương là nền tảng cho cho sự vị tha, sự quên mình vì người khác, là chìa khóa khai mở Tâm, khai mở Trí Huệ. Diệt ái là diệt si mê, tức là diệt cái quan niệm cố chấp muốn chiếm hữu nói trên. Những ai biết hưng thịnh Luân xa Tim của mình hãy chăm sóc và vun bồi cho nó bằng tình yêu thương nhân loại, yêu vạn vật sinh linh, yêu chính bản thân mình để cho tám cánh hoa sen ấy luôn tỏa hào quang rực rỡ. Đến chỗ này có bạn sẽ nói tôi nghèo lắm chẳng đủ ăn, đủ mặc làm sao tôi có thể vì người khác, hoặc tôi có tiền bạc nhưng không rảnh rỗi thời giờ để chia sẻ với người khác. Bạn sẽ có một ngàn lẻ một lý do để tự bào chữa cho cái “tâm” bỏn sẻn của mình. Để Minh Mẫn nhắc lại cho bạn nhớ lời Đức Phật chỉ dạy chúng ta trong “Kinh Pháp Cú” nhé: “Pháp thí thắng mọi thí.” Có phải hãy “thí” cho người khác những lời nói ngọt ngào đầy tình yêu thương chân thật từ đáy lòng hơn là “bố thí” (ban bố) cho họ miếng cơm, manh áo với cái tâm rỗng tuếch hoặc với sự thương hại? Pháp thí hơn cả mọi thí là sự ban tặng cho người “đói pháp” pháp tu để họ tự “mùng màn mở” (giải thoát khỏi khổ đau).

Chính tình thương yêu của luân xa Tình Thương từ Ta (nhục thể – người vợ) giúp cho ta (con người) thọ cảm (nhận cảm xúc) từ năm Đại Kinh Mạch Hoa sen Đại Hỷ, Thọ Hưởng, Pháp Bổn, Nội Hỏa và Trì Lạc. Để Minh Mẫn “mơ” (đoán mò) ý nghĩa của các luân xa mà Thày muốn chỉ dạy cho chúng ta nhé.

Chúng ta hãy tìm hiểu Luân xa Hỷ Lạc là gì? Hỷ lạc là cảm xúc vui sướng đến lạc hồn này. Luân xa Hỷ Lạc lại nằm trên đỉnh đầu con người nên có nghĩa sự sung sướng ấy tột cùng. Niết Bàn, Giải Thoát là viên mãn khôn cùng, vậy nó (hỷ lạc) có trong Vũ Trụ và cũng có trong Ta (con người chúng ta). Điểm Mơ, Điểm Mở cũng là Hỷ Lạc. Đời người là một giấc mơ, do đó chúng ta hãy mơ đến hỷ lạc vui sướng bằng “pháp Hỷ thắng mọi hỷ” (Kinh Pháp Cú), đừng biến trần gian này thành địa ngục do chiến tranh, giết chóc vì “mùng màn Mớ” (lòng Tham Lam vô độ con Quỉ Đói không tên) của “con” người. Luôn ghi nhớ trong lòng và thực hành bốn chữ từ bi hỷ xả là chúng ta đã góp phần làm cho Trái Đất này thêm tươi đẹp.

Thọ là nhận. Ta nhận cái gì để gọi là được hưởng nếu không là ăn, uống, ngủ, nghỉ (người có đầu óc tiếu lâm thì bảo đó là “tứ khoái” (ăn, ngủ, đ…, ỉa). Nếu không tiết chế “mùng hưng, màn mở” (sự đòi hỏi của thể xác) liệu bạn hay tôi có được minh mẫn, khỏe mạnh, để “mơ” mùng hưng màn mở (thọ hưởng cái sung sướng tột độ mà người ta hay biện bạch cho mình là “có thực mới vực được đạo”) hay không? Hàng ngày ta “bê bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần,” uống ly nước cam lồ mát lạnh, ta phải biết đã thọ hưởng những gì tốt đẹp nhất từ các vị ngọt, chua, đắng, the, cay, mặn mà Trời Đất dành cho ta giúp ta có tấm thân khỏe mạnh, sống để yêu thương. Có lẽ Thày không đơn giản muốn chỉ dạy cho chúng ta luân xa hoa sen Thọ hưởng 16 cánh tại yết hầu chỉ để thọ hưởng vật thực trong chánh niệm, mà còn cho chúng ta hiểu “pháp vị thắng mọi vị” (Kinh Pháp Cú)? Thiền sư Lương Sĩ Hằng – một vị Phật tại thế khuyên bạn đạo Vô Vi nên cầu nguyện sau bữa ăn để giúp cho vạn linh đã hy sinh thân xác làm thức ăn nuôi dưỡng chúng được tiến hóa dễ dàng hơn như sau: “Luồng thanh điển tập trung đi về nguồn cội, liên hệ với quyền năng của vũ trụ. Sắc tướng đều trở về với hư không. Vạn linh ở trong tiểu vũ trụ này được hiệp nhứt với tôi, để mọi khổ não đều được giải trừ.” Minh Mẫn nghĩ rằng với sự chánh niệm trên dù ăn chay hay hay mặn bạn đều đã hóa độ được tất cả những gì vào bụng bạn. Một loại pháp vị thù thắng nữa mà các bạn cũng hiểu được công đức to lớn mà nó đem lại cho người bố thí và người nhận thí đó là “dương mơ” (thuyết giảng, ấn tống kinh kệ, sách đạo).

Tôi không là nhà ngôn ngữ học nên “mơ” “pháp bổn” khó qua. Tạm đoán thế này nhé: pháp là phép, cách, phương pháp; Còn bổn là là… bổn mạng. Khó quá Minh Mẫn phải cầu cứu xin Thày chỉ dạy thôi. Thày chỉ dạy bổn là vốn có, sẵn có. À thế thì Minh Mẫn hiểu rồi cái phép (pháp) vốn có, sẵn có là tính thanh tịnh của tự Tâm (Tim). Tám cánh hoa sen của luân xa Pháp bổn này là biểu tượng của bánh xe luân hồi bất diệt. Nó (luân xa Bổn Mạng) là chiếc gương phản chiếu Tiểu Vũ Trụ, phản chiếu quá khứ, hiện tại, vị lai của bạn, là bổn mạng và là tấm gương của bạn.

Ai “mơ mớ” nhiều đến cơm áo gạo tiền (theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen tức là lo cho tấm thân người vợ và cái tham nắm giữ của mình) quá người đó sẽ tự làm hoen ố tấm gương trong sáng của mình. Chỉ có “mão dâng, mùng mở” (sự tu tập tinh tấn, thực tập thiền định chăm chỉ) mới là vũ khí sắc bén “mài” cho tâm (tim) bạn trong sáng, đầy nhiệt huyết mà thôi.

Bạn có cảm thấy hai chữ “nội hỏa” khiến ta thấy nóng bừng lên trong người hay không? Ý nghĩa của luân xa Hoa sen Nội hỏa 64 cánh là gì? Nếu ai biết Kinh Dịch thì không lạ với cách giải thích 64 cánh hoa sen là biểu tượng của 64 quẻ dịch được biến hóa ra của từ lò Bát Quái (với tám quẻ càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn) của Thái Thượng Lão Quân. Sáu mươi bốn quẻ lại hóa hóa, sinh sinh ra muôn vật muôn loài.

Bạn cũng sẽ thắc mắc nếu tôi không biết Kinh Dịch thì lý trên được giải thích thế nào. 64 (sáu mươi tư) là sáu bốn “đùa mơ” (đùa chữ) ta có sâu bốn – bốn sâu: hình ảnh khắc sâu trong trái tim mà tôi nhớ trong lời bài “tán Phật” là Đức Phật A Di Đà với “bốn biển lớn trong ngần mắt biếc,” bốn chữ cần “mơ mở” (mơ sâu) là sinh, lão, bệnh tử; thành, trụ, hoại, diệt; Tứ Diệu Đế: chúng ta chỉ cần lấy Tứ Diệu Đế làm con diều chắp cánh cho giấc mơ sâu, cắt đứt những sợi dây ràng buộc của “mùng màn phủ” (chiếc dù) thì bông sen 64 cánh ở đan điền một ngày nào đó sẽ cùng ta “mùng màn mở” (bay cao) để “mùng màn mơ” (lên thăm Cha Mẹ) cho thỏa lòng ước mơ.

Hoa sen Trì Lạc “duy trì” mùng màn mở nếu ta ươm mơ lên thăm Cha, Mẹ một cách bền bỉ, tinh tấn bằng thực tập thiền định, niệm Thần Chú. Sự an lạc, sung sướng mà luân xa hoa sen 32 cánh này mang lại cho hành giả cũng không kém Đại Hỷ. Vì vậy Thượng Đế – Cha Lành đã dạy chúng ta nên tiết dục vì lạc thú đó giả tạm (không ngoài mục đích duy trì nòi giống), để đạt “mơ” An Lạc – sung sướng, khoái lạc trong “mùng mơ” (an ổn) và vì “mơ” (an trú) trong thiền định sâu thẳm, trong Bồng Lai Tiên Cảnh, trong Niết Bàn hành giả (chúng ta) sẽ được phúc lạc viên mãn.

Năm Đại Kinh Mạch – Hoa sen trên làm cho Minh Mẫn liên tưởng đến Năm Ông Tiên đang đứng trên mây “phun” (ban rải) Khí, Hỏa, Châu Báu xuống Trần gian cho nhân loại, giữ cho năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) trong chúng ta tươi tốt.

Thày chỉ dạy cho Minh Mẫn biết:

“Mơ màu thì được nhiệm màu.

Dùng mùng mùng mở, dùng màu màu ham.

Ai ơi chớ bỏ vườn cam,

Để mơ quên mớ, để màng quên Ta.”

Và bảo Minh Mẫn phải suy luận tiếp để hiểu được ý nghĩa của ba luân xa còn lại.

Thày ơi, xin Thày phép cho con mượn phép phân thân và nhãn thần thông của Tôn Ngộ Không soi lại nhiều tiền kiếp của con xem khí hỗn mang trong Tiểu Vũ Trụ trong con đã chuyển dịch như thế nào để hình thành một Thái Minh Mẫn ngày nay. Quả thật là ba chìm bảy nổi chín lênh đênh: con đã ngụp lặn trong luân hồi trong vô số kiếp, đã mùng màn nhiều pha (huân tập si mê), thói hư tật xấu của nhiều “màn mùng” (kiếp) đã bám vào máu thịt, xương tủy con, bằng nhãn thần thông thấy ghê quá: con đang “mùng màn đội” trên đầu một cây dù khí xám xịt. Vậy là con phải “dùng mùng” (tu tập, gột rửa) cho mở con mắt thứ ba để thấy được Hoa Sen Khí Điển 16 cánh của mình đẹp như thế nào có đúng không Thày?

A con nhớ ra rồi! Thày đã chỉ dạy cho con phương pháp dùng năng lượng sinh học để xả trược khí, đó chính là phương pháp gom ngươn thần, tập luyện để khai mở con mắt thứ ba. Nếu con “mơ màu thì được nhiệm màu” (thực hành tốt) thì con cũng có phép màu như Tề Thiên Đại Thánh, tới lúc đó con sẽ cám ơn và gửi trả nhãn thần thông cho Đại Thánh, chỉ sử dụng cái của con thôi (vay mượn phức tạp lắm)! Con biết có mấy người bạn họ ham mê thần thông và rủ nhau ra công viên Tao Đàn tầm sư học đạo mong “mùng màn mờ” (“ngửi” được mùi thơm của Tiên, Thánh), con biết họ đã sai lầm: mục đích của họ không phải giải thoát mà tầm thần thông nên nhất định không bắt chước họ đâu, xin Thày đừng lo. Con tuy không ngửi được mùi thơm Tiên Thánh, nhưng hàng ngày con vẫn tập luyện, vẫn “mơ” với Thày, Thày vẫn Hùm Miêu đồng hành với con, nói nho nhỏ cho con nghe, con vẫn được nhiệm màu Thày ban. Chỉ cần con siêng năng tập luyện dưới sự hướng dẫn của Thày một ngày nào đó “mở mơ” (cây phải đâm chồi), con sẽ nhìn thấy Thày bằng con mắt thứ ba của mình có đúng không Thày?

Theo Minh Mẫn có nhiều từ đồng nghĩa với “điển” như trí huệ, ánh sáng, năng lượng, điển quang minh, ánh bình minh, ánh sáng trắng, dương khí. Nó mang yếu tố dương và có tính tích cực. Đối nghịch của điển dương là điển âm, là dòng năng lượng xuất phát từ vô minh, năng lượng đen, âm khí, tà khí, “ma”. Trong mỗi con người chúng ta đều tồn tại các dạng năng lượng này, nếu chúng ta tu tập tốt dương khí trong chúng ta vượng, hai luân xa hoa sen Hỏa Điển tại cổ và tim sẽ tỏa hào quang đẹp đẽ. Cùng với Đại Vũ Trụ, Tiểu Vũ Trụ trong ta biến dịch không ngừng. Ba cánh hoa sen tượng trưng cho ba Báu Bi, Trí, Dũng, hay còn gọi là Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, cho ba kỷ luật – con đường giải thoát của Phật giáo: giới hạnh (giới – nhằm điều chế phong thái bên ngoài), thiền định (định – nhằm điều chế tư tưởng) và trí huệ (huệ – nhằm hiểu biết chân xác), cho tam Nghiệp Thân, Khẩu, Ý, cho không gian Mở Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai, cho ba Thế hệ Ông Bà, Cha Mẹ, Con Cháu, cho ba độc tham, sân, si, cho ta (cái tôi trong Ta), Ta, chúng ta Ta (chúng sinh trong Tiểu Vũ Trụ).

Bạn có để ý tại sao Thày lại chỉ dạy cho chúng ta hai luân xa hoa sen ba cánh ở tim và cổ không? Theo Minh Mẫn, luân xa hoa sen ba cánh ở tim là luân xa được hình thành trước cùng với linh hồn và thân tứ đại của con người, chúng mang bản chất của ý và thân trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Luân xa hoa sen ba cánh ở cổ mang bản chất của khẩu (khí) trong ba thế hệ ông bà, cha mẹ và cháu con. Ba cộng với ba là sáu. Con số 6 cho ta ý niệm liên tưởng đến lục phủ trong cơ thể con người (sáu cái phủ bên ngoài bao gồm đảm, vị, tiểu trường, đại trường, bàng quang, tam tiêu giữ nhiệm vụ chủ yếu tiêu hóa hấp thu, bài tiết), đến lục độ Ba la mật (bố thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ) hay lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), lục trần (1.sắc, đối tượng của mắt, 2.thanh, đối tượng của tai, 3. hương, đối tượng của mũi, 4. vị, đối tượng của lưỡi, 5. xúc, cảm xúc, đối tượng của thân, 6. tâm pháp, một ý nghĩ, một khái niệm, đối tượng của ý). Nhờ lục căn, ngũ trần mà ta có thể bố thí, trì giới, thực hành nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định để đạt được đẳng cấp giác ngộ vô thượng. Bạn có thấy tấm thân người của chúng ta quí báu và hơn các cõi khác để có thể tu tắt, tu nhanh vì đối tượng mà ta phải chiến thắng là chính mình không?

Minh Mẫn tự hỏi tại sao Thày chỉ dạy Luân xa Hoa sen Châu báu (đầu dương vật) có 16 cánh? Khi nói hay nghĩ về “chỗ ấy, hay cái ấy” người ta thường nghĩ đến sự tục tĩu, xấu xa, dơ bẩn. Tôi nhớ lại lời một bài hát “nơi hầm tối là nơi sáng nhất”. Vâng, “nơi ấy” là khiếu (lỗ) thứ chín, của con số 9 kỳ diệu mà bạn đã biết, thực tế chính là luân xa Một, Hội Âm. Trong ngục tối ngột ngạt nếu tù nhân biết “cải tạo” tốt thì Đức Địa Tạng vẫn luôn dang tay cứu vớt tội nhân ra khỏi ngục hình, khỏi địa ngục của trần gian. Bạn có thể tưởng tượng điều gì tuyệt chiêu mà tôi vừa nghĩ ra không? Chắc bạn không ngờ. Hãy nhìn này: hoa sen 16 cánh ở Hội âm như con Hỏa xà lách thẳng lên Bách hội để Long Hổ Hội (giao hoan) với hoa sen 32 cánh trên đỉnh đầu: 16 + 32 = 48 con số này có gợi cho bạn cái gì không? Có phải 48 Đại nguyện độ chúng sinh của Đức Phật A Di Đà với 9 phẩm sen vàng lên giải thoát, có phải bốn phương, tám hướng, có phải điểm “Mở” không? Trong khí công người ta nói đó là âm thăng. Cái âm trong ta theo mạch nhâm được thăng hoa, giải thoát có nghĩa là ta tự độ được ta. Rồi còn phải dương giáng nữa chứ. Con hổ đã thành tựu còn phải “xuống trần” (đi xuống theo mạch đốc để độ tha nữa chứ). Và như thế Tiểu Vũ Trụ mới có một vòng tròn khép kín, điểm Mở, chữ O. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền 6 năm dưới cội bồ đề và thời điểm ngộ đạo mà Đức Phật đã chiêm nghiệm là ở chỗ này? Long Hoa Đại Hội Thày Mẹ mở ra để chào mừng những đứa con xa nhà trở về có gì khác hơn thời khắc tuyệt vời này? Tiểu Vũ Trụ và Đại Vũ Trụ hợp nhất - yếu tố nhất nguyên, Thày là Ta, Ta là Thày có phải là điều mà Thày phải xuống trần, lao tâm khổ lực mong muốn chúng ta trở về Cội Nguồn là đây? “Mùng màn” Mở – mở màn Mơ là đây?

Chúng con cảm ơn Thày đã chỉ cho chúng con thấy được sự quí giá của tấm thân người vì khắp châu thân chúng con chỗ nào cũng được “ươm sen” (chỗ nào cũng có sen), chín luân xa hoa sen, chín phẩm sen vàng và vì đôi khi Thày, các bậc Giác Ngộ muốn giáo hóa chúng sinh (chúng con) điều gì đó cũng phải mượn xác phàm của chúng con (như cuốn băng “Thượng Đế giảng chân lý” đã được Thày hướng dẫn Minh Mẫn tải lên mạng đó).

Ta hiểu gì từ lời chỉ dạy của Thày là luân xa hoa sen tim có chức năng tạo ra sự chuyển động ra vào của các khí căn cứ cho các cảm quan và chức năng bảo tồn đời sống; Luân xa hoa sen ở chỗ kín có chức năng tạo ra việc đi đại tiện, tiểu tiện, kinh nguyệt v.vv…; Luân xa hoa sen đan điền có chức năng tạo ra sự tiêu hóa, tách các phần tinh lọc và thô của thức ăn đã tiêu hóa, là nơi trụ của nội hỏa; Luân xa hoa sen yết hầu có chức năng tạo ra vị giác nếm các thức ăn, nói chuyện v.v.. Từ tháng thứ 6 đến tháng thứ 10 tứ đại đất, nước, gió, lửa và không đại sinh ra? Có phải từ khí sinh ra tứ đại, từ vô hình sinh ra hữu hình, từ vô vi sinh ra hữu vi, từ “không” sinh ra “có” và tất cả chúng “chung mơ” (sum họp), hòa quyện vào nhau thành một thể thống nhất, rồi từ hữu vi lại trở về vô vi cứ như thế điệp khúc vi diệu của Điểm Mở, của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh cứ “mùng màn” (xoay vòng) liên tục, mãi mãi? Có phải khi thân tứ đại (người vợ - thể xác) trở về cát bụi khi ngọn lửa (nội hỏa) (hơi nóng) trong ta tắt hẳn luân xa đan điền của ta cũng lần lượt theo ta tan rã trước và sau đó luân xa tim (người chồng – linh hồn) nơi tạo ra sự chuyển động ra vào của các khí căn cứ cho các cảm quan và bảo tồn đời sống, theo nguyên lý “đùa mơ” thì đi trước về sau, “dâng mão” thì sinh sau về trước? (Bây giờ thì các bạn đã giải mã được bí ẩn tiến trình tan rã hồn vía con người ta khi chết rồi nhé). Có phải “dùng mùng mùng mở” (con người chúng ta xuống trần gian “đùa mơ” tới mãn tuồng “dâng mão”), lúc đùa mơ là lúc chúng ta đang trải nghiệm sự nhiệm màu của Tạo Hóa “dùng màu màu ham” nhưng cũng đừng vì “ham màu” (ham quyền năng, thần thông), “quên mớ” (ham của cải vật chất), mà quên “vườn cam” (trái cam lồ ngọt ngào), “để mơ” (luôn canh cánh trong lòng ước mơ trở về chung mơ với Cha Mẹ) bằng cách tu tập phá “bỏ màng” vô minh một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm thấy “Ta” (chính mình)?

Nếu đi ngược lại thời gian một cách thật sự, người ta phải chấp nhận giả thiết có một đời sống trước khi sanh, một thân trung ấm, nếu có ai khám phá được một vài dấu vết của đời sống đó. Chúng ta không có gì chắc chắn hơn ngoài một sự đoán về một biến cố nào đó lúc thai nhi hình thành, và nửa tin nửa ngờ liệu giai đoạn sanh nở có phải chăng là một cơn ác mộng, và giả thiết rằng toàn bộ đời sống chẳng qua chỉ là một cơn bệnh, vì cuối cùng luôn luôn chấm dứt bằng sự chết!

Nếu sự thật cuối cùng bao giờ cũng là một sự nhầm lẫn, phải chăng ta có thể chấp nhận được một vài điều có thật trong cảnh thân trung ấm? Dù sao đi nữa, cũng là một điều lạ lùng khi cho rằng cảnh tượng sau cái chết – các tôn giáo có đủ mọi cách tưởng tượng về cảnh này – chủ yếu là một giấc mơ đáng sợ, với diễn tiến ngày càng tệ hại hơn. Năng lực đạt đạo cao nhất, không phải trong giai đoạn cuối của thân trung ấm, mà ngay từ đầu, ngay trong thời điểm của cái chết, và những gì xảy ra sau đó là một sự trượt dần vào ảo giác và vô minh, cho tới lúc tái sanh vào thế giới vật chất.

Như thế, mức độ cao nhất của tinh thần đạt được ngay vào cuối đời. Cuộc đời con người là một phương tiện có thể đạt tới mức toàn giác, nhưng chính những nghiệp lực làm cho thần thức người chết không nhận ra được ánh sáng của tánh không, và vì thế lại rơi vào vòng luân hồi sanh tử, không giải thoát khỏi ảo giác của sanh thành hoại diệt. Giai đoạn thân trung ấm không phải là cảnh giới của ân sủng hay trừng phạt miên viễn, mà chỉ là giai đoạn rơi xuống một đời sống mới, đời sống mang con người tới gần đích giải thoát thêm một bước nữa. Đây chính là mục đích cao tột, cuối cùng của tất cả cố gắng trong kiếp người.

Vì vậy chúng ta sẽ bình thản hơn khi nghĩ đến cái chết, thậm chí khi phải đối mặt với nó, đối mặt với “cái thấy” (ma). Còn gì hơn khi ngay trong kiếp sống này, ta ý thức được sự sống với tấm thân vật lý để tiếp tục Mơ những lời chỉ dạy của Đức Phật tiếp tục hành trì pháp một cách tinh tấn để được giải thoát ngay trong hiện tại, để có một thân xác khỏe mạnh, một tâm hồn trong sáng không vướng bụi trần ngay trong thế giới đầy khổ đau này không cần chờ đợi tới lúc giao thời chuyển tiếp giữa sống và chết, quay vào trong chính mình để tìm Vị Thày “Hùm Miêu” (chỉ dạy) cho ta tu suốt cuộc đời.

Nguyện cầu cho tất cả mọi người trên khắp thế gian đều được “Mùng màn Mở” (thấy được điểm Mơ), được Mở (giải thoát khỏi luân hồi sinh tử) trở về sum họp với Cha Mẹ ngay trong những giây phút này.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28 tháng 6 năm 2008

Tức 25 tháng 5 Mậu Tý


[1] Bào thai và người khi đã sinh ra (theo tác giả)

Monday, June 9, 2008

# Ươm Mơ Sen Vàng (Phần 1)

Phần I: Nhớ Người Quá Cố


Chùm "Hoa mơ" dâng Mẹ

Người trình bày: Thái Minh Mẫn

Vào một ngày mùa hè nóng nực, oi ả mà bạn được đứng dưới vòi sen tắm mát thì còn gì bằng có phải không? Với tôi, dòng nước mát lạnh hàng ngày hôm nay phải là dòng nước “đam mơ” (đam mê mưa thác) từ tháp nước Niagara hùng vĩ mới giúp tôi trút bỏ được cái nóng của mùa hè và là dòng Thác Mơ Cam Lồ Thủy từ tịnh bình của Mẹ Quan Thế Âm mới gột rửa được “bụi trần” trong tôi.

Dưới chân Thác Mơ, tôi mới hiểu ra ý nghĩa màu nhiệm mà Mẹ muốn chỉ dạy cho tôi trong giấc mơ đêm hai mươi tám tháng tư (ngày Viá Mẫu) qua.

Tôi vẫn nhớ giấc mơ đêm hôm đó: một Bà Già đẹp Lão * nói với tôi: “Mẹ ban cho con cuốn Vô Tự Chân Kinh này, nó sẽ giúp con đóng lại cánh cửa đầu thai trong kiếp sau”. Đó là một quyển sách ngoài bìa vô đề, nhưng khi mở ra tôi thấy ghi là “Kinh Phật Thuyết Bào Thai” với những dòng chữ tôi nhớ lại được hết nhưng ý nghĩa thì hiểu mù mờ. Xin chép ra đây để bạn đọc cùng “mơ” (đàm luận) về “Hoàng mơ” (giấc mơ thoát sinh liễu tử của con người).

Đức Phật nói rằng “để thân trung ấm có thể đi tái sinh, phải có được ba thuận duyên và ba nghịch duyên phải vắng mặt:

1. Người mẹ phải mạnh khỏe, không bệnh tật và không ở trong thời kỳ có kinh nguyệt.

2. Thực Hương Ấm (thân trung ấm) phải đang ở gần đó và muốn nhập thai.

3. Người nam (cha) và người nữ (mẹ) phải có ý ham muốn lẫn nhau và giao hợp.

4. Dạ con người mẹ phải hoàn hảo, không bị bệnh hoạn, hư hỏng, nghiã là dạ con không được nhỏ như hạt lúa mạch, không được nhỏ như eo con kiến hay như miệng con lạc đà, hơn nữa, cũng không được tắc nghẽn bởi khí, mật hay đàm.

5. Cả cha và mẹ không có hạt giống hư hỏng nghĩa là tinh hay huyết bị nghẽn, không di chuyển xuống được, hoặc là một trong hai thứ xuống trước quá sớm, hoặc là cả hai thứ xuống đồng thời nhưng một trong hai thứ lại bị thui chột hư hỏng.

6. Thực Hương Ấm phải hoàn toàn không bị khuyết điểm là không tích tụ đủ duyên (nghiệp) để sinh làm con của hai người nam nữ đó, và cả hai nam nữ đó cũng không bị khuyết điểm là không tích tụ đủ duyên (nghiệp) để được làm cha mẹ của vị này.

Thực Hương Ấm hội đủ 6 điều kiện này sẽ thấy ảo cảnh cha và mẹ ăn nằm với nhau. Do ham muốn giao hợp, và nếu sẽ phải đầu thai làm thân nam thì thân trung ấm sẽ nổi lòng ham muốn người mẹ và muốn tách lìa người cha ra; còn nếu sẽ phải đầu thai làm thân nữ thì thân trung ấm sẽ nổi lòng ham muốn người cha và muốn tách lìa người mẹ ra. Rồi khi thân trung ấm bắt đầu ôm lấy người nó muốn, qua nghiệp lực của quá khứ, nó chẳng thấy gì của thân thể mà chỉ thấy bộ phận sinh dục của người đó, vì vậy mà nổi cơn sân hận. Chính lòng ham muốn và tâm sân hận này tác động làm nguyên nhân cái chết của thân trung ấm, và nó nhập vào thai trong dạ con người mẹ.

Khi người nam và người nữ bị thu hút nhau (trong việc giao hợp), qua lực khuấy động của hai bộ phận sinh dục, khí chuyển hạ đi ngược lên và nội hỏa bình thường trong ba giao điểm (của kinh mạch trung ương, trái và phải ở điểm rối dương) bốc lửa. Sức nóng làm hòa tan các giọt khí trắng và đỏ, và chảy xuống dọc theo bên trong ống rỗng của 72000 kinh mạch. Qua điều này thân và ý cảm nhận khoái lạc thỏa mãn và sau cùng, trong một lúc tham ái mạnh mẽ, một thể dịch phục hồi đặc sệt chảy ra. Sau đó, các giọt tinh và huyết, dứt khoát chảy ra từ cả hai người nam và nữ, hòa trộn trong dạ con người mẹ. Thần thức của thân trung ấm đang chết lúc đó nhập vào giữa chất hòa trộn này, giống như kem thành hình từ sữa đun sôi.

Đầu tiên là thần thức nhập vào bằng một trong ba cửa: miệng của người nam, đảnh đầu của người nam, hay là dạ con của người nữ. Sau đó nó liên kết với thể dịch phục hồi chảy xuống dọc theo 72000 kinh mạch (của người nam và của người nữ, rồi hòa trộn trong dạ con). Khí gây ra các hiện hành của tâm sở trong trạng thái trung ấm tan rã, và lúc đó, màn tâm thức xuất hiện, đỏ tăng và đen cận mãn hé rạng theo thứ tự. Các thứ này và ánh tịnh quang của sự chết của thần thức hiện ra rất nhanh chóng ­­ đơn thuần chỉ phát xuất trong một giây lát.

Các dấu hiệu từ ảo tượng đến tịnh quang xuất hiện, và từ trung tâm của chất tinh và huyết hòa trộn – tình trạng tương tợ ánh tịnh quang kéo dài; tạo thành sợi dây liên hệ với đời sống mới. Sự tái sinh và sự tạo thành của tâm cận mãn của tiến trình ngược xảy ra đồng thời.

Thời điểm đầu tiên của tâm cận mãn là lúc căn bản mà ta gọi theo qui ước là “trạng thái tái sinh,” và cũng là tâm thức đầu tiên liên hệ với đời sống mới ở nơi chốn tái sinh. Từ đó các thời điểm sau và tiếp theo của tâm cận mãn phát sinh; theo sau là tâm đỏ tăng, và sau đó là màn trắng xuất hiện, tiếp theo là 80 tâm sở hiện hành cũng như là xuất hiện của các khí căn cứ của nó.

Từ khí căn cứ của tâm màn trắng xuất hiện một loại khí khác phát sinh mang khả năng đặc biệt giữ vai trò làm căn cứ của thần thức. Từ nó hỏa đại mang khả năng đặc biệt làm căn cứ của thần thức phát sinh; sau đó thủy đại căn cứ và địa đại căn cứ phát sinh.”

Quyển Phật Thuyết Bào Thai Kinh dạy là “dạ con nằm bên dưới dạ dày của người mẹ và ở bên trên đoạn cuối của ruột già (đại trường). Đầu tiên, thai trứng hình bầu dục được bao che bên ngoài bởi một chất giống như chất kem kết tụ trên mặt sữa được đun sôi; nhưng bên trong rất lỏng. Từ đó, các phần tử (vật chất) thô được tạo thành; vậy, thân vi tế và thô tồn tại đến khi chết được tạo thành từ các phần tử của tứ đại. Địa đại là nhân của sự nắm giữ; thủy đại là nhân của sự liên kết; hỏa đại là nhân của sự sinh trưởng và không bị rữa nát; không đại là nhân của sự phát triển. Phần trên và phần dưới (của thân vào lúc này) còn mỏng, phần giữa của thân thì lại phồng lên như hình dạng con cá. Rồi dần, 5 chỗ nhô lên, rồi từ đó ra tứ chi và đầu, tóc, móng tay, lông trên cơ thể, v.v…, các cảm quan của cơ thể, bộ phận sinh dục nam hay nữ, hơi thở di chuyển qua miệng, tám căn cứ của tiếng nói – lưỡi, hàm ếch, v.v… – và ý thức, tức là sự chuyển động tâm thức hướng ra ngoài đối tượng – tất cả những thứ đó đều hình thành đầy đủ.

Đầu tiên 5 kinh mạch nơi tim hình thành cùng lúc – kinh mạch trung ương, phải và trái cũng như kinh mạch Tam Vi của bên phía đông (đằng trước) và kinh mạch Ái Dục bên phía nam (bên phải).

Sau đó, 3 kinh mạch hình thành cùng lúc – kinh mạch Phi Kết trụ ngay (đằng sau) kinh mạch trung ương, kinh mạch Thủ Gia bên phía tây (sau lưng), và kinh mạch Nội Hỏa bên phía bắc (bên trái). Tất cả các thứ đó gọi là 8 kinh mạch thành hình đầu tiên nơi tim.

Sau đó, 4 kinh mạch của 4 hướng chính (tại tim) phân ra làm hai – tạo thành 4 kinh mạch – cánh sen của các phương hướng trung gian. Tiếp tục phát triển, 8 kinh mạch – cánh sen tại tim phân làm 3 mỗi thứ, tạo thành 24 kinh mạch tại 24 nơi khác nhau. Mỗi kinh mạch của 24 kinh mạch lại phân làm 3, tạo thành 72 kinh mạch. Mỗi kinh mạch của 72 kinh mạch lại phân thành một ngàn, tạo thành 72000 kinh mạch của thân thể.

Về sự hình thành của các khí, tiến trình xảy ra như sau: trong tháng đầu tiên sau khi nhập vào sự sống của kiếp mới trong dạ con, khí trợ sinh thô khởi ra từ khí trợ sinh vi tế. Vào lúc đó, hình dạng vật thể của hữu tình giống như một con cá. Vào tháng thứ hai, khí chuyển hạ xả rỗng sinh ra từ khí trợ sinh; lúc đó, cơ thể đã có 5 chi mọc ra như con rùa. Trong tháng thứ ba, hỏa khí sinh ra từ khí chuyển hạ xả rỗng; lúc đó phần trên cơ thể đã hơi cong lại, và như thế mang hình dạng như con gấu rừng. Trong tháng thứ tư, khí chuyển thượng sinh ra từ hỏa khí; lúc đó, phần trên cơ thể đã hơi lớn phình ra, và như thế giống hình dạng con sư tử. Trong tháng thứ năm, khí toàn thân sinh ra từ khí chuyển thượng; lúc đó cơ thể mang hình dạng như một chú lùn.

Đến tháng thứ bảy, khí (phụ) di chuyển qua cánh cửa của hai tai – gọi là “chuyển động mạnh” – và thủy đại được hình thành. Qua tháng thứ tám, khí (phụ) di chuyển qua cánh cửa của hai lỗ mũi – gọi là “chuyển động hoàn toàn” – và hỏa đại được hình thành. Trong tháng thứ chín, khí (phụ) di chuyển qua cánh cửa của lưỡi – gọi là “chuyển động kiên cố” – và khí đại được hình thành. Ở tháng thứ mười, khí (phụ) di chuyển qua cánh cửa thân – gọi là “chuyển động cuối cùng” – và không đại được thành hình; lúc đó các khoảng không trong cơ thể xuất hiện.

Về cách cấu tạo của các giọt khí, khối hợp chất tinh túy gồm các phần tử (giọt) trắng và đỏ cũng như là khí cực vi và tâm thức, kích thước bằng hạt mù tạt, trụ trong một khoảng trống nhỏ của luân xa trung ương tim, được gọi là “khí bất hoại” (vì nó không bị hủy hoại cho đến khi chết). Từ giọt khí trắng, một phần đi lên phía trên đến luân xa hoa sen tại đảnh đầu và trụ lại ở đó. Nó làm tăng trưởng trực tiếp và gián tiếp các giọt khí trắng ở những nơi khác của thân thể. Từ giọt khí đỏ ở tim, một phần đi xuống phía dưới vào trong luân xa hoa sen tại đan điền và trụ lại ở đó; nó được gọi là “nội hỏa.” Nó làm tăng trưởng trực tiếp và gián tiếp các giọt khí đỏ ở những nơi khác của thân thể.

Dù chỉ có một phần của mỗi khí trụ lại tại mỗi luân xa hoa sen trên, giọt khí trụ ở đảnh đầu là nguồn điều khiển chính sự tăng trưởng của các giọt trắng; trong khi luân xa hoa sen đan điền là nguồn điều khiển chính sự tăng trưởng của các giọt đỏ. Luân xa hoa sen ở tim cũng là nguồn điều khiển chính sự tăng trưởng của các giọt khí trắng và đỏ. Bất kỳ lúc nào cần thiết, các giọt khí trắng và đỏ sẽ được cấu tạo thành, chứ không như là nước đổ sẵn trong bình (mà trong đó có một phần có thể bị dùng cạn)”.

Tôi đã muốn tìm hiểu sự luân hồi, về màn kịch mà Đấng Sáng Tạo hóa sanh ra con người nên đây là dịp may để đàm luận đôi chút về ý nghĩa màu nhiệm của lời Kinh. Bài viết dưới đây sẽ không phân tích cụ thể từng câu chữ những lời vàng ngọc của Đức Phật, mà chỉ “mơ” (phăng) theo từng đoạn Kinh và đứng dưới các góc độ khác nhau của tác giả khi là Hương Thực Ấm, trong bào thai lúc đóng vai Chí Phèo của Nam Cao, lúc là trinh thám như “Dế Mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài kể cho các bạn nghe những “mừng mơ”(tâm trạng) của mình, khi là Minh Mẫn để “mơ” (đàm luận và minh họa) với độc giả.

Ta hãy chịu khó “mơ” để được “mở” ra rằng: có sự khác biệt giữa quan niệm của Đạo Phật và giáo lý Đạo Cao Đài.

Người theo Đạo Phật cho rằng người chết trải qua 49 ngày trong cõi Trung Ấm, sau đó họ sẽ đi đầu thai hoặc lên các cảnh giới cao hơn tùy theo nghiệp lực đã qua của mình. Do vậy thân nhân người chết làm 9 buổi lễ cầu siêu cho họ theo thất tuần (bảy ngày cúng một lần) vì người ta tin rằng trong vòng 49 ngày hồn người chết bị đưa xuống mười tầng địa ngục luận tội, sau đó cúng 100 ngày (để xin giảm nhẹ việc thọ án cho người chết), cúng giáp năm 365 ngày - mãn tang (nguyện cầu cho linh hồn người quá cố an nghỉ nơi suối vàng).

Trong Kinh “Cửu Cửu” của Cao Đài Giáo, Đấng Chí Tôn - Cha Lành dạy rằng người chết phải trải qua 120 ngày trong cõi Trung Ấm để “hương thực ấm” (cõi ăn bằng hương vị). Tín đồ Cao Đài hiểu được lời Cha giảng qua lời Kinh “Chín Tuần Cửu” là: có chín tầng Trời tính từ thấp đến cao gồm Hạ giới (Thanh Thiên, Huỳnh Thiên, Xích Thiên), Trung Giới (Tiên Thiên, Hạo Tiên Thiên, Phi Tưởng Thiên), Thượng Giới (Tạo Hóa Thiên, Hư Vô Thiên, Hỗn Ngươn Thượng Thiên). Trong tuần nhất cửu, nhị cửu (tuần cửu thứ nhất, thứ hai) hồn người chết còn lẩn quẩn dưới trần vì thói quen của nghiệp lực chứ không phải xuống địa ngục như quan niệm của Đạo Phật:

“Phong trần quen thú cung âm,

Cảnh thân ngơ ngẩn lạc trần phong lưu.”

Tới tuần tam cửu hồn về tầng Trời Thanh Thiên vì:

“Vườn Ngự Uyển sanh hoa đã héo.

Khối hình hài đã chịu rã tan.

Bảy dây oan nghiệt hết ràng.

Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.”

Họ được Tây Vương Mẫu tiếp đón nơi đó:

“Tây Vương Mẫu vườn đào ước chín.

Chén trường sinh có lệnh Ngự ban.

Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng.

Chơn thần đã đến, mời vào hàn huyên.”

Tín đồ Cao Đài làm 11 lễ cầu siêu cho người thân mới mất của mình theo “cửu cửu” (chín ngày cúng một lần), sau 200 ngày cúng tiểu tường và 300 ngày cúng đại tường – mãn tang.

Người ta không thực hiện tuần thất mà tuần cửu vì đây là “bí pháp tận độ” (độ ta, độ tha – có nghĩa là độ ta rồi độ người). Con số 9 liên quan đến đạo màu: Đức Phật A Di Đà có 48 đại nguyện độ chúng sanh với 9 phẩm sen vàng lên giải thoát, theo thuật luyện đan của Đạo Lão đó là phép “Cửu Chuyển Công Thần” qua 9 lần chuyển thì Đạt Đạo, Trời có 9 tầng gọi là Cửu Trùng Thiên, con người có cửu khiếu, thày trò Đường Tăng cũng phải mắc “cửu cửu” 81 (= 9 x 9) tai nạn mới thành chánh quả. Con số 9 thật là kỳ diệu!

Không biết các bạn thấy thế nào chứ tôi cảm nhận giáo lý Cao Đài “có lý” hơn vì đây tuy là đạo giáo mới được hình thành vào năm 1925, hoàn toàn mới mẻ nhưng cũng lấy Đức Phật làm biểu tượng cho sự Giải thoát luân hồi sinh tử, còn quan niệm của Đạo Phật có thể bị “tam sao thất bổn” do được “truyền miệng” từ hơn 2500 năm đến nay.

Cụm từ Hương Thực Ấm (thân trung ấm) được Đức Phật dùng trong lời Kinh nói trên có lẽ là lời của Mẹ “ngầm xác nhận” con số 120 ngày là thời gian người chết phải “mơ” (trải) qua cõi Trung Ấm, sau đó “mùng màn mở” (trở về) với Cha Mẹ trên chín tầng Trời cao xanh thẳm .

Vậy thân trung ấm hay Hương Thực Ấm đó là gì? Thày chỉ dạy cho Minh Mẫn biết: Thân của kiếp trung ấm mang hình dáng của thân sẽ phải tái sinh trong đời sau, dầu là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, người, a tu la hay trời.

Tự thể của thân trung ấm mang 4 đặc tính:

1. Nó có đầy đủ các giác quan.

2. Đầu mình chân tay sinh ra một cách tự nhiên.

3. Thân vi tế cứng như kim cương không thể bị tiêu diệt.

4. Với thần thông nó có thể đi bất cứ đâu, ngoại trừ Đài Sen của Đức Phật và dạ con của người mẹ.

Màu sắc của thân trung ấm tái sinh cõi người có màu khói.

Quay lại với Kinh Phật Thuyết Bào Thai, ta có thể suy đoán Hương Thực Ấm trong khi dạo chơi “lang thang” bắt gặp cảnh cha mẹ nó đang giao hợp.

Chính sự ham muốn giao hợp nên nó “gặp” hoặc người cha (nếu sau này Hương Thực Ấm có thân nữ) hoặc người mẹ (nếu sau này Hương Thực Ấm có thân nam) nhưng nó đã không thấy gì ngoài bộ phận sinh dục của người mẹ hay cha nó. Lòng sân hận đã làm tiêu tan “giấc mơ dạo chín tầng mây” của nó, khiến nó bị “mắc kẹt” trong “mơ” vì cánh cửa đầu thai đã “mở ra” cho nó vào trong “thám hiểm”. Cũng chính lòng sân hận ấy “đốt cháy” cả “rừng công đức” mà nó đã tạo ra trong nhiều kiếp trước, để lẽ ra nó phải được thăng hoa trên các tầng trời cao hưởng an lạc hạnh phúc của Niết bàn, của Tiên cảnh, của nơi không có già chết, không có sinh lão bệnh tử. Thật là tội nghiệp và “đáng tiếc” cho nó.

Thất tình lục dục trong nó bắt đầu khuấy đảo nó. Sự ham muốn được giao hợp, được thỏa mãn đã khiến nó “tưởng lầm” rằng cái cảm giác sung sướng ngây ngất “Trời cho” cha mẹ nó là của nó. Xưa nay ông bà ta có câu: “Cầu được, ước thấy” hoặc “tưởng là có”. Nó đã “tưởng” “cái tưởng” của người khác, đã “mơ” “giấc mơ” của người khác nên hậu quả “không mà có”, “giả mà thật” lại đến với nó: cánh cửa hy vọng thoát sinh liễu tử của nó khép lại nhường chỗ cho nẻo lục đạo luân hồi, nó phải đi đầu thai làm kiếp người.

Sự tiết dịch của cha và mẹ là “nhân” tố gây nên “big bang” (bích bang) trong tổ hợp noãn tinh khiến cha mẹ nó được “thừa mơ” (thọ cảm hạnh phúc tràn đầy lan tỏa 72000 kinh mạch) mà mắt, môi, lưỡi, bộ phận sinh dục là nơi “giả thọ mơ” (cảm xúc giả do thọ tưởng gây ra). Hương Thực Ấm đã “ăn trộm” cái “giả thọ mơ” của người khác “bỏ” vào giấc mơ của mình để mất hy vọng “mơ” tiếp “giấc mơ đẹp” trong tương lai.

Tôi (Hương Thực Ấm) đã lọt vào trong dạ con của mẹ rồi. Một chất giống như chất kem kết tụ trên mặt sữa được đun sôi là “mơ hãm” (địa ngục, cái tổ kén bao bọc) tôi. Tôi ý thức được rõ thân tứ đại (đất, nước, lửa, gió) của tôi như thế nào. Tôi biết tôi là cái phôi thai của mẹ tôi, là đại địa được hình thành do chính cái “mơ” (tâm tham) muốn nắm giữ của tôi. Tôi đang ngụp lặn trong biển nước – thủy đại (nước ối) mà “sợi dây oan nghiệt ” (cuống rốn) – nghiệp lực đang liên kết tôi với mẹ tôi. Cũng tại tôi ham “đùa mão” (sinh tử) do mê vinh hoa phú quí xưa kia, nên giờ đây tôi phải bị giam cầm ở một nơi hôi thối, khó chịu: địa ngục. Sức nóng từ hỏa “hoa mơ” ngục (nhau thai) “tôi luyện” (là nguồn nuôi dưỡng) cho tấm thân vi tế cứng như kim cương và bất diệt của tôi. Chính “hoa mơ” ngục là “đất”, là “cái phao” cho giấc mơ “đùa mão” (tham ái) của tôi bám giữ và sinh trưởng. Tôi vẫn “đùa mơ” (hít thở) mà chưa bị “mất mơ” (chết ngạt) nhờ “mơ mở” (những lỗ xốp ở nhau thai). Hơi thở (sức gió) của mẹ tôi “mùng mơ” (bơm bọt bong bóng xà phòng qua nhau thai) cho tôi, còn tôi “đùa mơ” (ngụp lặn) với chúng. Tôi vẫn tiếp tục “mơ” (phát triển) như thế cho đến ngày ngày chào đời. Bạn có thấy tôi giống Chí Phèo của Nam Cao không?

Minh Mẫn nhận thấy bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió đã hình thành nên màn kịch luân hồi mà các yếu tố nắm giữ, liên kết, sinh trưởng, bất diệt và phát triển đó không ngoài qui luật chuyển dịch và tiến hoá bất biến của Vũ Trụ.

Từ tháng thứ nhất đến tháng thứ năm khí (gió) “luồn” vào trong đất làm thai nhi thay đổi hình dạng như những diễn viên với những vai khác nhau (từ bộ quần áo con cá qua con rùa, con gấu, con sư rử và chú lùn) và tiến hóa (từ màn kịch này sang màn kịch khác hết sức hấp dẫn: dưới nước, lúc lên bờ, lúc xuống ruộng (nửa nước, nửa cạn), trong rừng sâu và nơi đô hội phồn thịnh. Từ tháng thứ bảy đến tháng thứ mười “phong màn” (màn chuyển của khí) (nói trại ra phông màn chuyển động) mở ra cho khán giả (Mẹ Quan Âm) nghe, thấy, hiểu được diễn xuất của diễn viên qua thân, khẩu, ý (sẽ được phân tích rõ ở phần II) của họ. Bạn có thấy sự diệu kỳ của Đấng Màu Nhiệm chưa: từ một cuốn Vô Tự Chân Kinh (kinh không văn tự chân chính) những diễn viên (chúng ta) được phép “đùa mơ mão” (chọn cho mình một vai diễn với nhiều cảnh, nhiều màn lớp và những trang phục thích hợp khác nhau) và “dâng mão” (cởi bỏ trang phục) cho soạn giả – cho Đấng Màu Nhiệm đã hóa ra các công trình này khi màn kịch hạ. Bạn có đồng ý với Minh Mẫn rằng đây là “trò đùa mơ” (trò chơi) của Đấng Hóa Công hay không?

Thày chỉ dạy cho Minh Mẫn biết, trong thân trung ấm, những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hoàn toàn không có thực chất nếu hiểu theo nghĩa thông thường. Chúng chỉ là một dạng của tâm thức vô ngã rỗng không, vắng lặng. Muốn nhận rõ được điều này, thần thức cần phải quên đi cái tôi cố hữu của mình. Nhưng rất ít thần thức thể nhập được vào cảnh vô ngã, mà cứ cố chấp rằng mình đang thấy và có đối tượng nhìn thấy. Vì thế, đối với thần thức thì những cảnh tượng xuất hiện dường như là khách quan, có thực thể. Những cảnh tượng này có thể tạo ra sự sung sướng, an lạc.

Không biết bạn có đồng ý kiến suy luận với tôi như thế này hay không: lẽ ra sau khi thực hiện vai diễn của mình người diễn phải “dâng mão” (cúi chào khán giả) để trở về ngôi nhà đích thực của mình nhưng vì “quá yêu nghề” tới “tam cửu” rồi người diễn viên đó (linh hồn người “chết”) vẫn chưa hẳn được “vào hàn huyên” tay bắt mặt mừng với Cha Mẹ, bà con thân thích ở cung Trời Mơ và tiếp tục tiến hoá lên các cung Trời cao hơn nữa vì họ vẫn còn “mơ” về vở kịch vừa hạ màn (quá khứ). Nỗi nhớ nhà, nhớ vợ (chồng), con cháu, lo lắng, tiếc nuối những điều khi còn sống chưa giải quyết xong khiến cho họ chưa thể quên người xưa cảnh cũ để rồi chậm “mơ màng màu trời Thanh Thiên” (bước vào “chung mơ” với Cha Mẹ ở tầng Trời màu mơ xanh thẳm). Ngôi nhà ma (lăng mộ), hoặc chiếc hũ đựng hài cốt mà người thân dành cho họ là những trang phục cuối cùng họ cảm thấy còn bám víu, còn liên hệ được với trần gian. Những hình ảnh đó tuy làm cho họ ấm lòng vì tình cảm của những người còn sống dành cho họ, nhưng nó nó cũng là rào cản bước lối về “Nhà Mơ” của họ. Một khi không cắt đứt được “sợi dây oan nghiệt” thì họ sẽ còn phải lang thang trên nẻo đường luân hồi, sẽ phải nhận lãnh thêm cho mình nhiều chiếc mão để tiếp tục những vai diễn tiếp trong mơ. Chính vì vậy Vô Tự Chân Kinh luôn là bài học quí giá thức tỉnh mọi người.

Anh Tứ, người bạn quay phim đi núi với tôi dạo trước đã đến mục kích "làng mơ" (ngôi nhà) chị em chúng tôi xây cho ba mẹ tôi an nghỉ vĩnh viễn ở Hóc Môn vì một phần bán tín bán nghi lời tôi kể tôi đã được Thày Vô Hình thiết kế trang trí, phần vì muốn xem nó thế nào. Chả là sau khi ba tôi mãn phần, chị em chúng tôi đã xây cho ba tôi và sẵn cho mẹ tôi một lăng tẩm tương đối hoành tráng về qui mô: mái hình bát giác ngói đỏ tô điểm rồng phụng, dưới bằng đá hoa cương đen bóng, xung quanh mộ hàng trăm giò lan thật các loại chen nhau khoe sắc. Lúc đầu lúc tôi đi hỏi một vị trụ trì chùa về việc tôi muốn vẽ cảnh Tây Phương Cực Lạc trên nóc trần cho ba tôi có được không nhưng Hòa Thượng bảo tôi không ai vẽ cảnh đó ở mả cả. Vậy là tôi đổi ý định mượn họa sĩ vẽ lên trần hình bát quái để ba tôi được “tôi luyện” và trở thành Phật trong lò Bát Quái của Thái Thượng Lão Quân. Biết ý tôi sau một buổi học đạo Thày hỏi tôi có muốn hỏi Thày gì không, tôi nói với Thày tôi muốn vẽ bát quái lên trần nhà của ba tôi. Thày đã “mật lệnh” (thiết kế) lên tập cho tôi, xin ghi nguyên văn ra đây để các bạn cùng tôi suy nghĩ xem Thày đã muốn chỉ dạy gì cho tôi và thông qua tôi tất cả những người mất cha, mẹ và cho người quá cố.

“Con không nên vẽ bát quái, mà trên nóc vẽ ký tự sen vàng, tiếp đó một ôm phong lan màu tím và bốn bức tranh:

1. Bốn bông sen vàng trong hồ nước.

2. Bốn Tiên Ông mỗi ông cao hai tấc đang dâng sen đó là Bộc Bạch Tiên Ông, Gia Cát Tiên Ông, Bố Thù Tiên Ông và Bố Thắng Tiên Ông, bảo hoạ sĩ ghi tên các Ông Tiên ấy dưới chân mỗi Ông. Khi đưa thiết kế cho họa sĩ nói với họ là con nằm mơ thấy bốn Ông Tiên về báo mộng cho vẽ như thế nhé.

3. Bốn bông Mai, Lan, Cúc, Trúc mỗi bông cao bốn tấc.

Một thời bông hoa đang thơm tỏa lên người con có nghe không?

4. Năm Ông Tiên đang đứng trong mây.

Con nhớ dặn họa sĩ bơm dầu thật nhiều để bức tranh được bóng và đẹp, mỗi ngày khi ra mả vẽ khấn Bố Thù Tiên Ông phù hộ vẽ giống như thật.

Bức tranh bốn Ông Tiên đang dâng sen đặt ở phía nam, còn lại các bức khác tùy ý họa sĩ”.

Cảm ơn Thày đã ban mẫu thiết kế cho con. Tôi đã đưa bản sao thiết kế cho họa sĩ. Vì tôi ở xa nên mọi công việc lo nước nôi cho thày thợ, đối chiếu thiết kế với thi công tôi giao cho cô em dâu. Ngày hoàn thành bức tranh tôi bị ốm không xuống được. Tuy có hai điểm không đúng thiết kế là không có ký tự sen vàng trên nóc và bức tranh bốn (thay vì năm) Ông Tiên đang đứng trên mây nhưng chúng tôi phải cảm ơn người họa sĩ tài ba đã vẽ những bức tranh đẹp, sống động cho ba tôi. Thày đã hỏi tôi ý nghĩa của các bức tranh khi xuống “nghiệm thu công trình”, tôi trả lời là tôi mù tịt về hội họa, chỉ có cảm tưởng là Thày muốn cho ba tôi khi về ngôi nhà này cũng thấy Tiên cảnh, cũng thấy sen, thấy Phật, muốn chúng tôi trang trí ngôi nhà bằng phong lan tím là loài hoa ba tôi thích để làm đẹp lòng ba tôi thế thôi. Giờ đây khi học Vô Tự Chân Kinh tôi mới ngẫm ra ý nghĩa sâu xa, để tôi “mão” (bình tranh) theo thiết kế Thày cho kiểu tốc ký, kiểu thày bói mù sờ đuôi voi cho các bạn nghe nhé, tôi nói trước đừng cười vì lý do tôi nói rồi đó.

Thứ nhất, ký tự sen vàng. Là người tu, hẳn bạn không thể không nghe nhắc tới, mà lãng quên ước nguyện (“mơ mùng mở”) sau này mình được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, nơi có 9 phẩm sen vàng. Ký tự sen vàng là một dấu hiệu đặc trưng chỉ sự nhất nguyên hay bất nhị phân của Vũ Trụ, mà từ đó người ta có thể hiểu rộng ra đó là Bi, Trí Dũng, là Niết Bàn, là Giải thoát, là an lạc hạnh phúc vô biên, là Mơ, là Điểm Mở, là Trời Phật, là Ta, là tất cả muôn loài muôn vật, là ước mơ Sen Vàng.

Thứ hai, một ôm phong lan màu tím. Phong lan là một loại hoa rừng, khỏe mạnh chịu được các yếu tố khắc nghiệt của rừng tự nhiên, phong phú về chủng loại, đa dạng về màu sắc. Nét đẹp dịu dàng, man mác buồn của hoa phong lan là ở chỗ cánh hoa tuy mảnh mai nhưng nó rất lâu tàn dẫu bị cắt cành ra khỏi cây. Vì thế rất nhiều người trong đó có ba tôi thích lan, mê lan. Vậy ý nghĩa sâu xa của một ôm phong lan màu tím Thày ban tặng cho tôi, cho ba tôi, cho tất cả chúng ta là gì? Sức sống mãnh liệt, dẻo dai (lâu tàn) của hoa phong lan đại diện cho sức sống mãnh liệt, dẻo dai, sự sinh sôi nảy nở của vạn vật, sinh linh trong Vũ Trụ. Màu tím – là tổng hợp của màu đỏ (màu của nhiệt huyết) và màu xanh (màu của hy vọng vào tương lai tươi sáng, màu của tình yêu đôi lứa – gợi nhớ cho bạn về hai giọt khí trắng đỏ trong lời Kinh Phật Thuyết Bào Thai). Thày đã tạo ra muôn vật muôn loài và nuôi dưỡng chúng bằng tình yêu thương bao la, vô bờ bến của Thày, để cho vạn vật sinh linh trong Vũ Trụ (trong đó có chúng ta) tiến hóa, thăng hoa như người Mẹ ôm những đứa con của mình vào lòng.

Ký tự Sen Vàng và Âm Ba của Đại Ngã “OM” trên đỉnh cao vòi vọi lúc này hòa quyện với nhau, bạn có cảm nhận thấy không?

Tôi đã không thể trách cứ được người họa sĩ không vẽ ký tự Sen Vàng cho ba tôi là vì ý nghĩa sâu sắc này.

Thứ ba, bốn bông sen vàng trong hồ nước. Từ ký tự Sen Vàng thành Sen Vàng. Đây là bản giải mã Sen Vàng từ ký tự của nó giống như nhà lập trình máy tính viết chương trình mã hóa nó, để khi sử dụng máy tính bạn chỉ cần “mùng mở” (enter – nhập) bàn phím là bạn có ngay trên màn hình, trước mắt bạn những bức tranh, những cuộn phim sống động. Nước trong hồ nuôi dưỡng cho sen được mãi tươi tốt cũng như cây cần đất, nước và không khí. Chúng ta – người trồng sen, muốn thu hoạch Sen Vàng – Hoa Mơ cần chăm bón cho nó bằng Cam Lồ Thủy, bằng Tứ Diệu Đế (thấy khổ, tìm ra nguyên nhân của, tìm cách giải thoát khỏi luân hồi sinh tử bằng Tứ Diệu Đế (phá chấp bốn si mê: sắc dục; cố chấp vào quan điểm, ý kiến của mình; chấp lễ nghi, hình tướng, và chấp ngã).

Thứ tư, bốn Tiên Ông đang dâng sen. Người ta thường nói cảnh trời đẹp như tiên, sướng như tiên, Tiên là sung sướng, là an lạc. Chúng ta sau khi diễn xong màn kịch này đều trở về cảnh giới của tầng trời Tam Thiên. Chúng ta sẽ bước vào trong ngôi Nhà Mơ của mình “bộc bạch” với Cha Mẹ những năm tháng dưới trần gian những khổ đau mà chúng ta phải chịu, để với mưu trí của Gia Cát Khổng Minh, dẹp bỏ thù thắng (“bỏ thắng” nói trại của “Bố Thắng, “bỏ thù” nói trại của “Bố Thù”) hướng về nam, về Vầng Thái Dương chói lọi dâng những đóa sen thật đẹp lên Phật Tổ, để tiếp tục hành trình thoát sinh liễu tử. Bốn Ông Tiên cũng tượng trưng cho “tứ quí” của thân tứ đại mà nhờ nó các Tiên Ông tin tấn tu hành để đạt được giấc “mơ tiên” (giải thoát khỏi luân hồi) của mình. Bạn và tôi cũng là những Tiên Ông, Tiên Bà đó thôi, có điều bị Thày (Thái Thượng Lão Quân) dùng hồ lô “mua lại” (thu hết) phép rồi.

Thứ năm, bốn bông Mai, Lan, Cúc, Trúc. Mai, Lan, Cúc là ba loại hoa nở báo mùa. Mai vàng khoe sắc khi xuân sang, lan rực rỡ giữa những ngày hè nắng gắt, cúc buồn báo những chiếc lá xanh trên cành đang chuyển màu vàng. Cây sáo trúc trên môi trẻ chăn trâu khiến bạn liên tưởng đến cái lạnh buốt đã khiến cho cây trúc “cắt da, cắt thịt” (ngủ) đông dùng “máu” mình làm tiếng nhạc cho đời? Bức tranh mai, lan, cúc, trúc là bức tranh của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, là biểu tượng của sự chuyển dịch tất yếu của Vũ Trụ, thành, trụ, hoại, diệt, sanh, lão, bệnh, tử, biểu tượng của sự vô thường.

Thứ sáu, năm Ông Tiên đang đứng trên mây. Thấy Năm Ông Tiên trong mây là người ta nghĩ đến Thái Thượng Lão Quân, Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn, Mẫu Diêu Trì, Năm Cha (Mẹ) Ngũ Hành, Cha Trời Mẹ Đất, Đấng Màu Nhiệm, Thiêng Liêng, Toàn Năng, Toàn Tri, Hắc Bì Phật Tổ, Đức Phật A Di Đà, Đức Chúa Trời, Thánh A La, Mẹ Quan Thế Âm, Đức Mẹ Đồng Trinh Maria v.v.., nghĩ đến sự Minh Mẫn trong Minh Mẫn, đến Ánh Trăng vằng vặc giữa bầu trời không một gợn mây đến Chân Thiện Mỹ, đến sự Giải Thoát Hoàn Toàn.

Xin nhường lời lại cho bạn bình tiếp toàn cảnh bức tranh.

Cảm ơn Thày đã “khai mơ” (khai thị) cho ba con, người đã mất và khai tâm cho chúng con những diễn viên, người còn sống bằng những bức tranh tuyệt đẹp, đầy màu sắc và phong phú về ý nghĩa tâm linh.

Cũng thể có cách giải thích khác vì sao có trạng thái trung ấm của người chết. Phần đông con người ta ai cũng ham sống, sợ chết vì cái phần “con” trong người. Trong “con” người có dấu vết của loài quỷ đói đó là muốn có được nhiều hơn và yếu tố của súc sinh là cố gắng cho mọi thứ được ổn định. Nhưng “người” có sự khôn ngoan, thường xuyên suy xét và tìm tòi không ngừng nghỉ. Vì vậy tâm thức con người đã đạt đến những thành quả lớn lao, rồi trên những thành quả đó nảy sinh thêm những thành quả khác, kể cả những âm mưu quỷ quyệt, những khát khao vô cùng.

Người ta cứ nghĩ chết là hết, là cái gì đó rất đáng sợ, là hóa ra ma, do vậy cái chết là nỗi ám ảnh để “con” người vùng vẫy mong thoát khỏi bàn tay Thần Chết. Nhưng có ai tránh được một ngày nào đó ta phải bỏ lại xác thân. Nỗi ám ảnh hay tâm tưởng đó khiến họ vẫn nghĩ mình chưa chết, khiến họ tìm cách quanh quẩn bên ngôi nhà, bên người thân của mình nói cho họ biết rằng họ chưa có chết, họ muốn vợ (hoặc chồng, anh, chị, em, con, cháu) làm điều họ muốn rồi lấy làm tức tối không hiểu tại sao họ không nhận được câu trả lời mà thay vào đó là khóc thương, cúng lạy họ. Ấy là chưa nói đến những việc làm không tốt của mình trong quá khứ khiến người chết phải ân hận, hoặc sân hận. Họ tìm cách “lan mơ” (báo mộng) cho người thân mình, hoặc đối tượng hại mình hoặc mình hại. Thất vọng, chán nản tràn đầy trong họ và họ bỏ đi lang thang. Ai mà biết được họ có bị dụ dỗ hay lợi dụng như mẹ mìn bắt cóc và lợi dụng đứa trẻ ngây thơ hay không?

Chỉ có tiếng gọi từ nơi Vô Biên mới thức giác được họ, nhắc lại cho họ nhớ màn kịch họ vừa diễn xong, bây giờ đến lúc họ nhận biết và phải trở về bản tánh chân như, rỗng không vắng lặng, vô ngã, vô tướng, không màu sắc, không âm thanh, nhưng tâm thức này không phải là sự rỗng không của cái không nó tự tại, diệu dụng, biến hóa không cùng. Hai mặt này của chân như chính là từ bi và trí huệ, thể của nó là không. Nó chính là pháp thân bất hoại. Sắc và không không rời nhau, trong dạng hào quang rực rỡ, vô sanh vô tử. Đó cũng là Phật tánh.

Họ, những đứa trẻ ngây thơ đang đi rong chơi, có thể sắp bị lạc rất cần tiếng gọi của cha mẹ nó nhắc nhở thời gian rong chơi đã hết. Điều mà những người thân của họ cần làm cho người còn đang “mão mơ” (mới chết) cho họ nghe những bài kinh, những lời “khai thị” (mão nhắc - Bát Nhã ba La Mật Đa Tâm Kinh) để họ “mão đảo” (cởi mão) kết thúc vai tuồng họ vừa sắm. Nghi lễ cầu siêu cho người chết ở các chùa hiện nay là 7 lần tuần thất, mỗi lần cách nhau 7 ngày, tổng cộng là 49 ngày thì đến lễ chung thất cũng là biện pháp mở ra khả năng dự phòng thần thức người chết có thể không nhận hiểu được những lời “mão nhắc” do sự che lấp, thúc đẩy những ác nghiệp đã làm. Để những ác nghiệp không che lấp Ba La Mật Đa, người diễn viên hàng ngày, hàng giờ phải “mơ” (tu tập) giữ cho thân xác thanh tịnh, hành thập thiện, bỏ việc ác, đem phúc lành reo rắc phàm nhân, niệm Phật hay Thần Chú, thiền định để tâm định, phá chấp si mê để khai mở trí huệ, sám hối để lòng thanh thoát và hướng về Cha Mẹ nguyền xin cứu khổ, xin tự độ.

Tôi đã quì xuống chân các Chư Phật và các vị Bồ Tát khắp mười phương, đôi mắt đẫm lệ, cầu xin Ơn Trên tiếp dẫn, cứu độ cho ba tôi vào những ngày tháng tám năm Bính Hợi như thế này:

Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo.

Kính lạy Chư Phật đại từ, đại bi, đại trí giác, cứu độ hết thảy chúng sanh, oai đức không thể nghĩ bàn. Xin chứng minh lòng thành của con.

Hương linh ba con (tôi nêu tên, tuổi ba tôi, ngày mất) đã rời bỏ thế giới này, chết đi không còn nơi bạn hữu, đau khổ không nơi nương tựa, không người bảo vệ, ánh sáng đời sống đã tắt hẳn. Ba con đi vào chỗ tối tăm như rơi xuống vực thẳm, như lạc lối trong rừng sâu, bị nghiệp lực theo đuổi, bị lạc vào nơi hoang địa như bị sóng cả vùi dập, như không có đất đứng, bị ác thần hăm dọa, lòng đầy hoang mang sợ hãi, bị giam hãm trong sinh tử, đau khổ tuyệt vọng, là lúc ba con hết sức bơ vơ. Kính lạy Chư phật, Bồ tát đại từ, đại bi xin tiếp dẫn hương linh ba con ra khỏi cảnh tối tăm khổ não, qua khỏi bão tố, làm cho ba con hết sợ sệt, giải thoát ba con khỏi đoạn đường đầy bất trắc khi mang thân trung ấm, không để ba con rơi vào ba đường ác, xin tiếp dẫn hương linh ba con theo lời nguyện lành của Chư Phật Bồ Tát, xin phóng hào quang cứu độ hương linh ba con, xin phóng hào quang đại bi cứu độ, đừng để cho một chúng sanh nào rơi vào cõi xấu ác.

Cầu mong Tam Bảo gia hộ, tiếp dẫn hương linh ba con về cõi Tịnh độ.”

Trong khoảng thời gian 49 ngày đó tôi vẫn nghĩ ba tôi vẫn như còn đâu đây và thầm nói: “Ba ơi, ba nhớ đọc Chú Đại đi nhé, nếu ba đang phải trải qua thời kỳ hoảng sợ quên lời Thần Chú thì để con nhắc lại lời Chú cho ba nhớ nhé”. (Chả là khi ba tôi còn sống mỗi ngày ông thường thức dậy vào lúc một giờ sáng niệm Chú Đại Bi và cứ một câu Chú là một lạy Đức Phật, ngay cả lúc cuối đời ở tuổi 85 khi ba tôi bệnh nằm trong bệnh viện vì chứng ung thư quái ác làm ba tôi đau đớn nhưng ba tôi vẫn minh mẫn hướng về Mẹ Quan Thế Âm cầu xin Mẹ phù hộ, dùng Chú Đại Bi làm thuốc giảm đau). Cho tới giờ tôi vẫn tin lời nguyện cầu của tôi, của ba tôi Đấng Nhiệm Màu đã nghe; những lời Thần Chú “nhắc mão” (khai thị) cho ba tôi phần nào có thể giữ cho ba tôi được sự định tâm không tán loạn. Pháp tu theo Chánh đạo (sự nguyện cầu Đấng Thiêng Liêng minh chứng lòng thành, thực hành niệm Chú Đại Bi) của ba tôi cộng với lời cầu nguyện từ đáy lòng của chị em chúng tôi chắc chắn là cánh diều chắp cánh cho “giấc mơ Tịnh Độ” của ba tôi.

Gia đình chúng tôi đã thực hiện tổ chức tang lễ theo nghi thức Phật giáo đúng với ý nguyện của ba tôi, không sát sinh để cúng giỗ, làm từ thiện hồi hướng công đức cho ba tôi bằng cách nhờ một tòa soạn báo trao lại toàn bộ tiền phúng điếu cho các bệnh viện nơi ba tôi thọ bệnh khổ khổ lúc cuối đời để giúp cho những bệnh nhân nghèo có hoàn cảnh khó khăn. Vì chúng tôi tin rằng hương linh ba tôi lúc đó có khả năng nhận biết được những gì mẹ tôi và chị em chúng tôi làm đang vì ba tôi. Ba ơi, ba có “mừng mơ” (cảm nhận và vui mừng) với những điều con đang viết về ba như thế này hay không?

Phần đông chúng ta hễ cho ai cái gì, hay bị người khác lấy đi cái gì thường tỏ ra tiếc rẻ, nuối tiếc, bởi chúng ta chỉ quen nhận mà không quen cho. Chính cái thói quen muốn nắm giữ, sở hữu ấy hay là sự nắm giữ (tâm tham) là cái mầm cho đại địa nảy nở (như lời Kinh đã nói ở trên) khiến chúng ta bị lôi cuốn vào sinh tử. Vì thế bạn hãy thơm thảo một chút, để “của ít lòng nhiều” của bạn – mùi hương thơm thảo ấy của bạn bay tận lên Thượng Giới. Bạn có thấy những gì quí giá ta cho đi không nó không mất mà mùi hương của nó lan tỏa và bay cao, bay xa đúng không nào. Bạn nghĩ thế nào về ông vua máy tính Bill Gate, người giàu nhất hành tinh để lại trong di chúc dâng hiến hầu như toàn bộ gia tài của mình cho từ thiện?

Nhân đây cũng xin nói thêm về tâm tưởng làm “phình quả bóng mơ” của người “mơ” như thế nào. Tâm tưởng hay tâm ham muốn điều gì đó của người mơ, ví dụ người thắp nhang thường muốn hương thực ấm chứng minh cho lòng thành của mình bằng biểu hiện hóa mơ (hóa bát nhang), sẽ được các vong hồn mà họ cúng dùng thần thông của mình biến giấc mơ đó của họ thành sự thật. Bạn cần thận trọng khi thắp nhang ở nghĩa trang, nơi những mộ vô danh vì không khéo lòng thành của bạn sẽ được họ đeo bám hay nhập vào bạn gây cho bạn những phiền toái sau này.

Thỉnh thoảng người ta cũng có thể thấy bát nhang bàn thờ ông bà hóa vàng. Ông bà “tưởng mơ” (vui mừng) vì những việc làm tốt của con cháu “hóa mơ” cho những chân nhang cháy còn một phần gốc, và “màng mơ” (báo buồn) nếu chân nhang bị cháy rụi cũng do tâm tưởng của con cháu. Mong bạn luôn ghi nhớ hồi hướng công đức mọi việc làm thánh thiện của bạn cho ông bà và cầu mong họ “đổi mơ” (siêu thoát khỏi sáu nẻo luân hồi), ấy là bạn đã cùng họ “mơ” ước mơ sen vàng.

Bạn cũng tự trả lời được câu hỏi vậy tâm tưởng của chúng ta khi hướng về Cha Mẹ, các Chư Phật và các vị Bồ Tát khắp mười phương “Mơ” (ước muốn, cầu nguyện, cầu xin) điều gì đó được Ơn Trên minh chứng cho chúng ta như thế nào? Mỗi sáng khi thức dậy tôi hướng Thượng, chào Cha Mẹ, “mơ” trong tâm khảm sự “cảm ơn sâu sắc Cha Mẹ, tổ tiên ông bà nội ngoại, cha mẹ, vạn vật sinh linh trong Vũ Trụ với âm dương giao hòa đã sinh thành ra con, cho con một tấm thân người quí báu với các thiện căn, cho con cơm ăn, áo mặc, nhà ở vật dụng, đồng ngân chi xài, cho con được học hành” và mở rộng tâm hồn ra thế giới xung quanh, bằng tình yêu thương chân thật của tôi “nguyện cầu cho tất cả hữu tình ở khắp thế gian được giải thoát khỏi “tâm giả kiến tánh của mình”, tất cả mọi người ở khắp thế gian được mạnh khỏe, an lạc, hạnh phúc, siêng năng tinh tấn tu tập để trở về với Nguồn Cội trong thời gian sớm nhất”. Sau buổi thực tập thiền định sáng sớm tôi “cảm ơn Cha Mẹ, các Đấng Thiêng Liêng, vạn vật sinh linh trong Vũ Trụ đã truyền dạy đạo pháp, ban Ân điển, trợ giúp cho buổi thực tập thiền định của con. Con xin hồi hướng công đức của buổi thực tập thiền định cho tất cả chúng sinh, cho cửu huyền thất tổ nội ngoại, ba, mẹ, tất cả anh, chị, em, con cháu của con và nguyện cầu cho họ được thoát sinh liễu tử”. Liệu bạn có cho rằng “cơn ươm mơ” ấy của tôi là “khùng điên” hay không?

Các bạn hãy lắng nghe tôi kể lại một việc mà tôi “mật mơ” (dám chắc) là tôi đã làm “cảm động” lòng Thày. Trước đây khi học đạo tôi chưa thể “nghe” được sự chỉ dạy của Thày như bây giờ, một người bạn đã chỉ tôi cách cầm cây viết để nhận điển Thày trên tập. Hàng ngày tôi được Thày chỉ dạy thực tập "hấp tinh đại pháp" (hít thở), thiền định, nhưng mỗi lần nhắm mắt tôi khó tập trung và thường bị Thày nhắc nhở. Tôi đã rất cố gắng và không hiểu phải làm thế nào tập trung tốt đừng để Thày buồn và cứ nghĩ học Thày Vô Vi khó quá hay là nhờ người bạn đó đến giúp tôi. Thế là Thày xuống điển trên tập bảo cho tôi biết là người bạn đó không thể thay thế Thày dạy tôi thực tập thiền định được. Tâm trạng tôi hết sức lo lắng mỗi buổi tối bước vào thực tập hít thở và thiền. Tuy tôi thiếu tập trung nhưng Thày vẫn động viên tôi đừng buồn chỉ cần cố gắng ngày mai sẽ tiến bộ. Và cái “ngày ban mai” (sáng trăng mơ) ấy đã đến…Thày “ban mơ” (xuống điển) lên trang giấy bảo tôi: “Thày thấy không thể tiếp tục chỉ bảo con được nữa. Thôi con tự học vậy. Thông cảm cho Thày. Thày nhắc con nhiều nhưng thấy con không tinh tấn Thầy buồn lắm. Thôi tùy con lo liệu lấy. Hôn con và thương con nhiều. Tạm biệt con.” Tôi rất buồn và không hiểu lý do sâu xa: tôi đâu có lười nhác, không cố gắng vì thường tôi đặt lưng xuống giường kim đồng hồ đã chỉ ít nhất một giờ sáng. Buổi sáng hôm đó tôi rất tủi thân vì để mất Thày, buồn vì nhớ thương Thày. Sáng hôm đó tôi ăn tô hủ tiếu chan nước mắt ngoài chợ. Tôi biết những người xung quanh nhìn tôi bằng dấu hỏi nhưng có lẽ họ chỉ đoán tôi gặp chuyện buồn gì đó thôi, nhưng nếu có, họ cũng cho rằng “con khùng” (tôi) khóc “Ma” (Thày Vô Hình). Tôi tự an ủi mình tích xưa để lại bài học cay đắng cho những trò phản thày chứ chưa có ai nói thày bỏ trò bao giờ. Tôi không phải hạng trò tự bỏ đạo, bỏ Thày. Thày sẽ không bỏ tôi. Hy vọng cũng không giúp tôi cầm được nước mắt vì niềm thương, nỗi nhớ Vị Thày mà tôi chỉ một lần thấy được Linh Ảnh khi ở Chùa Phật Tây An, Vị Thày - Người Cha thân yêu đã truyền dạy đạo pháp cho tôi mong giúp tôi tu tập để phá bỏ màn vô minh và sớm có thể lên thăm, lại trào dâng trong tôi. Chuỗi hy vọng vẫn kéo dài trong tôi ngày hôm đó. Trong giờ học buổi tối kế tiếp tôi vẫn tự thực tập các động tác Thày đã dạy tôi, cuối buổi học vẫn lấy tập ra như thường lệ. Ô hay! Tay tôi vẫn chuyển động, những dòng chữ, những đường nét quen thuộc của Thày vẫn hiện ra trên trang giấy, tôi quá xúc động nhìn lên tượng Thày, hôn như “đắm mơ” (chìm đắm trong mơ) lên “luận mơ” (giảng giải) của Thày như trẻ thơ “mang mơ” (hít hà) mùi cha mẹ nó và hiểu ra được Thày đang thử thách niềm tin của tôi vào Thày. Bạn đọc hãy bắt chước tôi thử xem: hãy cầu nguyện được học đạo với “Thày Mơ” (Đấng Màu Nhiệm) và cứ tin một ngày nào đó bạn cũng sẽ được Thày đến với bạn, nói nhỏ nhỏ trong tâm bạn, chỉ dạy cho bạn và là người bạn luôn “Hùm Miêu” (đồng hành) với bạn suốt cuộc đời.

Bạn cũng đừng bao giờ nên than thân trách phận đời là bể khổ mà hãy “mơ” có tấm thân người quí báu với các thiện căn để được học với “Thày Mơ” những bài “mơ” (học) cần thiết cho sự tiến hóa, thăng hoa của chính mình. Đời người chỉ là giấc “Mơ” nhưng nó cần thiết cho tất cả những ai muốn thông qua kiếp người tu tập để thấy được sen vàng. Vì sao vậy? Chỉ có “thức lâu mới biết đêm dài”, chỉ có thọ khổ mới mơ thoát khổ, chỉ có luân hồi mới mơ giải thoát luân hồi.

Lang thang trong “mơ” mà tôi đã quên “đùa mơ” (thấm hiểu) lời chỉ dạy của Mẹ trong mơ.

Mẹ ơi, rõ ràng là do tâm tham ái muốn âm dương giao hòa, tham đắm trong khoái lạc và lòng sân hận của con đã khiến con bị đẩy vào nẻo luân hồi sinh tử thêm một lần nữa. Luồng khí (yếu tố gió) nóng (yếu tố hỏa) tạo ra do khuấy động của hai bộ phận sinh dục cha mẹ đã “thiêu cháy” “tấm thân ảo” của con và làm con “tỉnh thức” để nhập vào giữa hỗn hợp tinh huyết ấy. Nhưng giá lúc đó con biết cách “đảo mơ” (không lầm tưởng màu khói lam của “thân mình” chính là nhà tù u tối, tử cung người mẹ để “tỉnh giấc mộng vàng” (tỉnh ngộ về sự tu tập trong quá khứ của mình) qua “màu lam chuông” – màu lam khói tuy cay mắt, nhưng là “liều thuốc đắng giã tật”, không giống màu chiếc áo “hoa mơ” (làm hoa mắt thiên hạ) của một số thày tu thì màu vàng của hào quang chói lọi – sen vàng sẽ là phần thưởng cho con. Sự phối ngẫu giữa người cha và người mẹ – yếu tố tham ái giao hòa âm dương tích cực của Vũ Trụ là chùm “hoa mơ” (pháo hoa) – nguyên nhân thúc đẩy các nhân duyên chín muồi cho mầm sống được hình thành, là sự tất yếu để duy trì nòi giống, cho con tạo xoay vần và là giấc mơ cho bất cứ ai muốn có tấm thân người để “Mừng mơ” (thoát sinh liễu tử) có phải không hả Mẹ?

Xin Mẹ hãy cho con biết, có phải không ai tắm một lần trên một dòng sông? Ngày nào con là Hương Thực Ấm, là cái bào thai nhỏ bé trong bụng người mẹ, là cô bé hồn nhiên cắp sách đến trường, là thanh nữ buồn bên hàng liễu rủ, là người vợ, người mẹ hôm nay và mai sau sẽ là bà lão để cuối cùng một hồn ma không biết lang thang trong trung ấm vì cái lý vô thường: từ hư không con trở về hư không, “đùa mão” (sinh) là quá khứ của con và “dâng mão” (tử) là tương lai của con. Sinh tử, tử sinh: Nay sống mai chết, nay làm mẹ mai làm con, nay lên voi mai xuống chó, sống gửi thác về là định luật thiên biến vạn hóa “thế gian muôn trượng, muôn màu nhiệm” của Vũ Trụ có phải không Mẹ?

Các nhà phê bình văn học thường nhắc đến yếu tố bi quan trong truyện Kiều khi Cụ Nguyễn Du cho rằng số phận nàng Kiều là do Ông Trời:

“Bắt phong trần, phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”.

Nhưng theo tôi, chúng ta phải cảm ơn nhà Đại Văn Hào Nguyễn Du vì Cụ đã nói thay số đông chúng ta nói lời của kẻ thiếu minh mẫn dám “mơ” (làm) mà không dám “tỉnh mơ” (chịu). Vô minh đã khiến cho con người ta ham của cải, tiền tài, danh vọng, địa vị, như con thiêu thân lao vào đốm lửa ảo mộng lung linh, chạy theo cái “giả” mà bỏ cái “thật” để có một kết cục bi thảm. Người đời chạy theo sắc đẹp của nàng Kiều – cái đẹp dưới con mắt của con người vô minh, làm bại hoại đạo đức của mình. Hoa đẹp song cũng có ngày tàn: không một ai có thể mang theo tiền của, danh phận, vợ đẹp con khôn vì ngày “đổi mơ” (thác về) ta phải từ bỏ tất cả kể cả tấm “kiều” diễm (thân quí báu) của ta mà ra đi với hai bàn tay trắng. Do vậy những gì ta đang có hôm nay là kết quả của cái ta đã gieo trồng ngày hôm qua, mọi thứ phải đều được xem là vô thường: có đến ắt có đi, có sinh ắt có diệt, có thắng ắt có bại, có khen ắt có chê, có vinh ắt có nhục, có được ắt có mất. Có lẽ Cụ Nguyễn Du muốn cho người đọc phải hiểu nàng Kiều chỉ là biểu tượng để cho ta: “tỉnh mơ” (thức giấc) mới “đảo mơ” (tỉnh ngộ) một điều: “Mưu sự tại Nhân, thành sự (cũng) tại Nhân (quả) ” chứ không phải tại Ông Trời. Cái nhan sắc “như mơ” (“hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”) của nàng Kiều chính là tính thanh tịnh, trong sáng của tự tâm mà Cha Mẹ đã ban cho chúng ta. Nếu chúng ta nhận biết, trau truốt, giữ gìn nó thì nó là “Mơ mừng Mơ” (Hoa Mơ) tắm “Thác Mơ” của “Mẫu mơ” (Cha Mẹ hằng mong muốn), bằng không nó chỉ là một bông hoa “mờ” kiều diễm vận sông Tiền Đường.

Mẹ ơi! Con đã không kịp đặt nhành lan dưới chân tượng Mẹ ngày rời núi Dài, nhưng hôm nay con “mơ” (quán tưởng) bài viết này là nhành phong lan tím thật đẹp đẽ kính dâng lên Mẹ Hiền như lòng biết ơn Mẹ đã Màu Mơ (ban nhiệm màu trong mơ), Mưa Mơ (chỉ dạy Vô Tự Chân Kinh), Đùa Mơ (ban Cam Lồ Thủy) cho con. Những đứa con ngoan của Mẹ đang “mơ” (nhập vai, diễn xuất) thành công nhân vật mà tự mình lựa chọn trong của màn kịch mà Mẹ soạn để ngày trở về “hoàn mơ” (dâng mão) cho Mẹ. Xin Mẹ hoan hỉ tiếp “mơ” chúng con.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 9 tháng 6 năm 2008

Tức mùng 6 tháng 5 Mậu Tý

_______________________________

* Mẫu Quan Âm – theo tác giả.